🐊 Nghệ Thuật Chí Phèo
Item "Giấc mộng Chí Phèo - Thị Nở đẹp nhất như trăng rằm" của Lê Quang đã có một chiếc nhìn bắt đầu về nhân đồ vật Thị Nở Thị Nở đã có được "lột xác" thành một cô gái rất chuẩn về nước ngoài hình: đầu. đầu quấn khăn, tóc buộc đuôi ngựa, phương diện tô son phấn, đôi mắt màu hạt dẻ, lông mày lá liễu… Chí Phèo hẳn là sung sướng lắm. Với ý nghĩ đó.
Càng tìm hiểu phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật của tác phẩm Chí Phèo, càng giúp ta thấy rõ hơn giá trị nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm này cũng như tài năng của Nam Cao, "một cây bút truyện ngắn xuất sắc" của nền văn học hiện đại Việt Nam. KIM HUỆ Nam Cao và cách kể chuyện độc đáo trong truyện ngắn "Chí Phèo"-Phần 1
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo Giá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao - Giá trị hiện thực Sự đàn áp, bóc lột và tàn ác của bọn thực dân, phong kiến đối với những người nông dân trong xã hội xưa Số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng lại vô cùng thê thảm, bần cùng và trở thành lưu manh.
Thực ra Chí Phèo chưa bao giờ là kẻ ác, ngay cả khi hắn đi cướp giật hay xin đểu. Một người như Chí Phèo chẳng thể nào ác với ai được. Hắn ta không có mưu đồ hại người thì làm sao có thể làm được điều ác. Cái ác chỉ có thể có ở kẻ mạnh tiền của, quyền lực và mưu mẹo. Những thứ đó Chí Phèo chưa bao giờ có.
Đặc sắc nghệ thuật trong Chí Phèo. 1. Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn
Nghệ thuật biểu hiện sự sống, tái hiện sự sống làm sao không dựng cái khung không gian và thời gian lên được để chứa đựng vật, để cho sự vật có chỗ sống, sinh sôi, nảy nở" (Huy Cận). Vì vậy, vấn đề thời gian và không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn chương đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới quan tâm, đề cập đến.
Nghệ sĩ ưu tú Bùi Cường - người nổi tiếng với vai diễn Chí Phèo trong bộ phim "Làng Vũ Đại ngày ấy" đã qua đời lúc rạng sáng 3/8/2018, hưởng thọ 73 tuổi. Loại tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao khỏi SGK: 'Chỉ là chuyện của 1 tuần' Thầy giáo Văn Như Cương qua đời ở tuổi 80 Trình chiếu bộ phim 'Làng Vũ Đại ngày ấy' TTXVN/Báo Tin tức
Chí Phèo là một tác phẩm thể hiện rõ nét lối đi riêng biệt của Nam Cao trong sự nghiệp văn học, tập trung vào số phận của những người nghèo khổ ở quê hương. ''Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.".
Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất độc đáo, phong phú và đa dạng về ngôn ngữ, về giọng văn, về thể loại, về sắc thái biểu cảm. Một cây bút uyên bác, tài hoa sử dụng tiếng Pháp, chữ Hán và tiếng Việt để sáng tác thơ ca, truyện kí, văn chính luận; ở phương diên nào, thể loại nào, Người cũng thu được những thành tựu đặc sắc.
seKXYXf. Phân tích tấn bi kịch của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. HƯỚNG DẪN CHI TIẾT I. MỞ BÀI Nam Cao là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông là cha đẻ của những tác phẩm tên tuổi “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Đời thừa”… trong đó “Chí Phèo” là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của văn học hiện thực phê phán. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo và con đường tha hóa của người nông dân trước Cách mạng, Nam Cao đã khắc họa thành công tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo mang đến cho bạn đọc bao niềm xúc động xót thương. Xem thêm Phân tích bài thơ Chiều tối Phân tích bài thơ Vội vàng II. THÂN BÀI kịch là gì ? Bi kịch là sự mâu thuẫn giữa hiện thực đời sống và khát vọng cá nhân. Hiện thực đời sống không đủ điều kiện để cá nhân thực hiện được khát vọng của mình dẫn đến cá nhân rơi vào hoàn cảnh bi đát có thể dẫn đến cái chết. Trong văn học Việt Nam ta đã từng bắt gặp bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, bi kịch nghệ thuật của nhà văn Hộ, bi kịch của Vũ Như Tô… nhưng bi kịch lạ lùng nhất là bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người” của Chí Phèo. 2. Những biểu hiện của bi kịch Bi kịch ấy ngay từ đầu tác phẩm đã hiện lên qua tiếng chửi của Chí Phèo. Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là hình ảnh vừa quen vừa lạ. Quen vì đó là tiếng chửi của những thằng say rượu. Lạ vì hắn chửi mà không có ai chửi nhau với hắn, không ai lấy làm điều. Chí “chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Cay đắng hơn nữa, đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo lại là “tiếng chó cắn lao xao”. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa. Qua tiếng chửi ấy, ta nhận ra bốn thái độ Thái độ của người chửi hằn học, hận thù; thái độ người nghe dửng dưng, khinh miệt; thái độ nhà văn xót xa, thương cảm; thái độ người đọc tò mò… Vậy Chí Phèo là ai? Bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi. Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm“. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ. Bi kịch tha hóa, lưu manh là con đường dẫn đến bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế“. Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại“. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước Cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo. Gặp Thị Nở và khao khát hoàn lương. Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng Thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí Phèo. Đó là sứ giả của tình yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Nhưng có lẽ cần phải nói thêm, Thị Nở không chỉ là vai trò sứ giả của lòng nhân đạo mà Thị còn là một “thiên sứ” của tình yêu. Vị thiên sứ này không có đôi cánh thiên thần nhưng có đôi tay đầy ắp tình người. Thiên sứ ấy như một ngọn gió, một ngọn lửa thổi vào tâm hồn của Chí. Nếu là gió, gió sẽ thổi bay lớp tro tàn đang vây quanh anh. Nếu là lửa, lửa sẽ đốt cháy lớp vỏ quỷ dữ để trả về cho anh một con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải về… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Âm thanh cuộc sống này khiến ta liên tưởng đến tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Tiếng sáo đã lay động tiềm thức xa xôi của Mị, đánh thức tâm hồn Mị, thức dậy cả một quá khứ đẹp tươi. Đó chính là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc làm nên chất thơ cho tác phẩm. Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí. Nó như cơn gió thổi tung đám tro tàn nguội lạnh, như từng giọt nước nhỏ vào tâm hồn sỏi đá, cằn khô làm tan đi giá băng tâm hồn. Hơn hết, nó làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ “có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm“. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo đã cô đơn hơn bao giờ hết “Nhìn phía trước người thân chẳng có/ Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người”. Hắn như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Cháo hành đã tẩy ố đi men rượu, gột rửa những tội lỗi con người. Cháo hành có hương vị đặc biệt quá, những kẻ vô nhân tính như cha con nhà Bá Kiến làm sao mà biết được. Đó là hương vị của tình người, hương vị của tình yêu. Khi mà cả làng Vũ Đại không chấp nhận Chí là con người thì Thị Nở đã giang rộng vòng tay để đón lấy anh. Và bát cháo hành kia vô hình dung đã sưởi ấm cho trái tim nguội lạnh và mở đầu cho một mối thiên duyên. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Chí Phèo quen sống với một kiểu định nghĩa Muốn có cái ăn hắn phải kêu làng, phải rạch mặt ăn vạ, hắn phải thực sự hóa thân vào con quỷ dữ… Mỗi miếng ăn hàng ngày của Chí đều có máu và nước mắt của những người dân lương thiện làng Vũ Đại. Nhưng hôm nay cái triết lý sống ấy của Chí dường như đã thay đổi, những gì hắn đã từng có giờ phản bội lại hắn trong hương cháo hành của người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn kia. Hắn hiểu rằng người ta sống với nhau không chỉ bằng tội ác mà còn bằng cả tình thương yêu nữa. Mắt hắn lần đầu tiên ươn ướt. Hơi cháo hành phảng phất phục sinh phần người trong Chí… Hắn có thể sống với người ta bằng tình yêu, hắn nhen nhóm một mơ ước về cuộc sống bình dị… Hương cháo là hương cuộc đời, hương tình yêu mà từ trước đến giờ chưa ai cho Chí cả… Bát cháo hành giản dị nhưng bao nhân tính ẩn chứa, nó giữ chân Chí Phèo đứng lại ở bờ của phần người… Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…”. Đó là giây phút mà hắn người nhất. Đã hai lần chính Thị Nở đã phải thốt lên “Ôi sao mà hắn hiền!” rồi “Những lúc tỉnh táo hắn cười nghe thật hiền”. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Phần quỷ tạm thời rũ bỏ. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Ôi! Phải là lời của Chí Phèo đó không? Nghe sao mà hiền lành, có chút gì ngờ nghệch, hồn nhiên mà lại rất đỗi chân thành. Lời cầu hôn không tình tứ như bao kẻ khác nhưng lại khiến cho trái tim chúng ta nghẹn ngào thương cảm. Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào! Đỉnh điểm của bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Lời nói của bà cô Thị Nở như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt Chí Phèo làm tắt ngúm ngọn lửa lòng vừa được nhen lên trong Chí. “Ai lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha không mẹ như cái thằng Chí Phèo” đã trở thành định kiến khắc nghiệt lấp mất lối về của Chí. Cánh cửa cuộc đời vừa hé mở thì cũng ngay lập tức đóng sầm lại trước mắt của anh. Đó chính là bi kịch của một con người chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia sáng loé lên trong cuộc đời đen tối của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời. Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Một khi rượu không còn đủ sức để làm lu mờ lí trí con người thì nó sẽ quay ngược trở lại thức tỉnh lý trí ấy. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe “thoang thoảng mùi cháo hành” rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Anh càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả nhân hình và nhân tính của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người – Tao muốn làm người lương thiện! – Ai cho tao lương thiện! Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Lương thiện có ngay trong mỗi con người là di sản tinh thần của mỗi người. Tại sao phải đi đòi lương thiện ? À, thì ra Chí đã bị cái xã hội vô nhân tính ấy cướp mất. Khốn nạn thay cho Chí, ngay cả cái quyền được làm một con người cũng bị xã hội người ăn thịt người ấy bóp nát. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu cuộc đời tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! 3. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật Về nội dung, Tác phẩm Chí Phèo thông qua tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật chính, nhà văn đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp. Tác phẩm đã lên án, tố cáo tội ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đã đàn áp và bóc lột nhân dân lao động. Qua đó nhà văn đồng cảm với những nỗi khổ đau, bị đày đọa và lăng nhục của người nông dân. Đồng thời nhà văn cũng kịp thời phát hiện và trân trọng trước vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật và khao khát thay đổi thực tại để mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Về nghệ thuật, Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán, chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc. III. KẾT BÀI “Chí Phèo” là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Tác phẩm “Chí Phèo” mãi mãi bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại. Có một nhà thơ đã từng viết rằng “Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống – Nào có dài chi một kiếp người – Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách – Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai”. Vâng! Gần một thế kỉ qua, giá trị nghệ thuật và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm, vượt qua gió bụi thời gian, đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, bất hủ của nó. Thầy Phan Danh Hiếu
Trước khi bước sang bài văn mẫu phân tích giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao, HOC247 mời các em xem thêm video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ hướng dẫn đọc hiểu truyện ngắn để qua đó giúp các em thấy được những đặc sắc về giá trị nghệ thuật mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm. Bài giảng giúp củng cố lại những kiến thức cần thiết cho các em để tiến hành viết bài văn được chính xác và hấp dẫn hơn. Mời các em cùng theo dõi! A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý B. Dàn ý chi tiết a. Mở bài Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo Dẫn dắt vào vấn đề giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo b. Thân bài Khái quát chung Xuất xứ Nam cao đặt tên cho tác phẩm này là Cái lò gạch cũ, 1941 đổI lạI là Đôi lứa xứng đôi, 1945 sửa lạI là Chí Phèo, in trong tập Luống cày. Tóm tắt Chủ đề Qua số phận của nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên án sâu sắc xã hội tàn bạo, chà đạp lên nhân phẩm con người đồng thời thể hiện tình thương yêu sâu sắc và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Nội dung Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn xây dựng nhân vật điển hình sắc nét Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình trong tác phẩm tạo nên những đoạn văn tuyệt bút. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu... Kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho thiên truyện Mở đầu truyện bằng hình ảnh đứa bé trần truồng xám ngắt nằm bên chiếc lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại.... Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo chết nhưng còn bao nhiêu số kiếp Chí Phèo tái diễn?-> Cốt truyện dộc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc Ngôn ngữ, giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động, đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, sắc lạnh lại vừa đằm thắm, trữ tình như hòa quyện, xuyên thấm vào nhau. Ngoài ra, giọng trần thuật cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiêp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến. Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bi lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện “Hắn vừa đi vừa chửi...” với độc thoại của nhân vật Ờ! Thế này thì tức thật!... Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,..., lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong. So với dung lượng của một truyện ngắn thì đây là một truyện tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động chẳng hạn độc thoại nội tâm của Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu. c. Kết bài Những cảm nhận và đánh giá khái quát về vấn đề Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân Bài văn mẫu Đề bài Giá trị nghệ thuật trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao Gợi ý làm bài Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại. Truyên ngắn Chí Phèo 1941 đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao. Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình. -Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến- Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm. Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫ điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này. Mong rằng, tài liệu trên đã giúp các em hiểu rõ hơn dụng ý cũng như tư tưởng của nhà văn Nam Cao qua những nét đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Chí Phèo. Chúc các em học tốt hơn truyện ngắn Chí Phèo với tài liệu văn mẫu này. -MOD Ngữ văn HOC247 tổng hợp và biên soạn
Phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy được sự sáng tạo nghệ thuật mới mẻ và tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam bàiGiới thiệu tác giả, tác phẩmThân bàiPhân tích tâm trạng chí phèo theo luận điểmLuận điểm 1 Chí Phèo trước khi gặp Thị NởLuận điểm 2 Phân tích tâm trạng chí phèo sau khi gặp Thị NởKết luận khi phân tích tâm trạng chí phèoMở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Trước khi đi vào phân tích tâm trạng chí phèo, việc nắm bắt hoàn cảnh ra đời của tác phẩm sẽ giúp bài văn phân tích thêm sâu sắc. Nhà văn Nam Cao sinh năm 1917, tên thật là Trần Hữu Tri, quê ở tỉnh Hà Nam. Ông là một trong cây viết nổi bật của nền văn học hiện thực với tưởng nhân đạo sâu sắc cùng sáng tạo nghệ thuật độc đáo. “Chí Phèo” là tác phẩm được đánh giá là kết tinh của tài năng nghệ thuật và cái nhìn hiện thực nhân đạo của Nam Cao. Điểm nhấn của tác phẩm là đã lột tả được diễn biến tâm trạng nhân vật mà khi phân tích tâm trạng chí phèo ta sẽ thấy rõ điều đó. Thân bài Phân tích tâm trạng chí phèo theo luận điểm Luận điểm 1 Chí Phèo trước khi gặp Thị Nở Hình tượng Chí Phèo được xây dựng là nhân vật điển hình cho giai cấp nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và rơi vào tha hóa, thời kỳ trước cách mạng tháng Tám. Dưới ngòi bút tài hoa, sự sáng tạo nghệ thuật và cái nhìn độc đáo, Nam Cao đã vẽ nên bức chân dung Chí Phèo đa diện, có những chuyển biến tâm lý bất ngờ. Phân tích tâm trạng chí phèo trước khi gặp Thị Nỡ ta thấy Chí hiện lên là một kẻ cù bất cù bơ, bị cả làng ghét bỏ. Trước khi bị Bá Kiến đẩy vào tù vì ghen tuông vu vơ, Chí Phèo là một chàng thanh niên hiền lành và lương thiện của làng Vũ Đại. Nhưng rồi, hai thế lực đang kìm kẹp người nông dân lúc này, là xã hội phong kiến cũ mà đại diện là Bá Kiến và chế độ thực dân đã biến Chí Phéo thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Phân tích tâm trạng chí phèo phần đầu tác phẩm ta thấy, về gia cảnh, Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côn khốn khổ, bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ. Chí Phèo được dân làng nuôi và năm hai mươi tuổi thì làm thuê cho nhà Bá Kiến. Chí luôn ôm một giấc mơ giản dị của người nông dân, là cưới vợ sinh con, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Rồi Chí cùng vợ nuôi lợn làm vốn làm liếng, nếu khá giả lên thì mua vào sào ruộng. Rõ ràng, đây chỉ là một ước muốn giản đơn nhất của con người, và nếu ở một xã hội bình thường, cuộc sống này chẳng có gì khó thực hiện. Nhưng rồi cuộc đời bi kịch của Chí Phèo bắt đầu khi bị bá Kiến ghen tuông vu vơ về Chí Phèo và bà Ba. Chí Phèo phải ở tù 8 năm và trong 8 năm ấy, nhà tù thực dân đã biến một thanh niên nông dân hiền lành, chất phác trở thành kẻ đâm thuê chém mướn, trở thành con quỷ dữ ai cũng e dè. Phân tích tâm trạng chí phèo qua tác phẩm ta thấy, y đã bị cái xã hội nửa thực dân nửa phong kiến cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Về hình dạng của Chí, Nam Cao đặc tả “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm…”. Còn về tính cách, lúc này Chí có thể làm mọi việc của “một thằng đầu bò chính cống”, mà như nhà văn liệt kê Kêu làng, rạch mặt ăn vạ, đập phá, đâm chém… Luận điểm 2 Phân tích tâm trạng chí phèo sau khi gặp Thị Nở Vào cái lúc Chí Phèo đang ngụp lặn, ngạt thở dưới hố sâu của tội ác, tuyệt vọng thì Thị Nở xuất hiện như một “thiên sứ” của cuộc đời Chí. Sau cái đêm Chí gặp Thị Nở bên bờ sông và giữa hai người trải qua cuộc ân ái, hắn tỉnh dậy và thấy lòng bâng khuâng. Trước kia say triền miên, Chí không bao giờ nhận thức được cảm giác của mình. Nhưng lúc này hắn thấy “miệng đắng” và “lòng mơ hồ buồn”. Và dường như đây là lần đầu tiên hăn sợ rượu, “như người ốm sợ cơm”. Phân tích tâm trạng chí phèo ta còn thấy những chuyển biến tâm trạng bất ngờ khác. Đó là hắn nghe thấy được nhưng âm thanh cuộc sống, nào tiếng chim hót, nào tiếng thuyền chài đuổi cá, nào tiếng rì rầm của mấy bà đi chợ. Dù những âm thanh này vẫn diễn ra thường nhật, nhưng nay Chí mới nghe thấy. Vì vậy, nó có ý nghĩa như tiếng chuông thức tỉnh, tiếng gọi tha thiết hay cái lay mình để Chí nhận ra mình đang ước muốn, khao khát điều gì. Mọi tiếng động, âm thanh hay cảm giác của Chí Phèo sau cái đêm gặp Thị Nở, có thể nói là cơn mưa rào đang tưới mát, đang làm dịu dàng lại tâm hồn của một tên quỷ dữ. Nó khiến Chí Phèo nhớ về ước mơ một thời tuổi trẻ của mình. Nhưng cũng chính âm thanh Chí nghe được đã lay tỉnh khiến hắn nhìn thẳng vào thực tại. Thực tại mà ở đó hắn đã già, đã qua bên kia con dốc cuộc đời, nhưng hắn vẫn hoàn toàn cô độc. Phân tích tâm trạng chí phèo ta nhận ra, tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở diễn biến càng phức tạp và nhiều bất ngờ. Nhìn vào thực tại, rồi hắn nghĩ đến tương lai. Nhưng tương lai thật mơ hồ, bởi hắn nhận ra đó là một tương lai “đói rét, ốm đau và cô độc”. Và lúc này, những chuyển biến tâm trạng, Chí Phèo dường như đã không còn là con quỷ dữ, mà đã trở lại năng lực làm người. Diễn biến tâm lý của Chí Phèo thay đổi mạnh mẽ hơn nữa sau khi hắn nhận được bát cháo hành giải rượu từ Thị Nở. Khi thấy bát cháo hành, Chí Phèo hết ngạc nhiên rồi lại thấy “mắt mình như ươn ướt”. Hắn cảm động vì lần đầu tiên trong đời, khi đã đi quá nửa cuộc đời, hắn được một người đàn bà quan tâm, chăm sóc. Phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy còn thấy hắn xúc động là vì đây là “cái cho” đầu tiên của cuộc đời dành cho mình. Bởi xưa nay, để có cái ăn, hắn không phải rạch mặt ăn vạ. Lúc này đây, khi nhận được một “ân tình” của cuộc đời, hắn thấy chạnh lòng bởi cuộc đời bi kịch của mình. Với Chí Phèo, bát cháo hành Thị Nở mang cho là cái ấm áp của tình người, tình thương, mà khốn khổ và tội nghiệp thay bây giờ hắn mới nhận ra. Bát cháo hành đơn giản nhưng nó thấy rất ngon, nhưng hắn cũng tự hỏi mình “sao bây giờ mới được ăn” và ngay lập tức hắn biết vì “có ai nấu cho mà ăn đâu”. Phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy Chí hiện ra là một kẻ cộc độc đến tuyệt đối, không người thân, không tình thương, không sự săn sóc. Ta hiểu rằng, bát cháo hành của Thị Nở đối với Chí Phèo thực sự là liều thuộc giải độc và cũng là biểu tượng của tình người, tình yêu thương. Không những thế, hương vị của bát cháo hành cũng là hương vị của tình yêu lần đầu Chí Phèo được nhận. Nhưng quan trọng hơn, không phải là nước cháo hay lá hành mà chính sự quan tâm chăm sóc ân cần của Thị Nở cùng hương vị của bát cháo, mới giữ vai trò xoa dịu trái tim quỷ dữ bên trong Chí Phèo, làm thức dậy bản năng lương thiện, tính người ở sâu thẳm con người Chí. Và Phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy, trái tim đầy thương tổn, đầy vết xước, đầy cô đơn tuyệt vọng của Chí lúc này được Thị Nở hay nói đúng hơn là tình yêu thương của Thị Nở vá lại, vỗ về. Số phận là ở chỗ, lúc trước vì say nên khi ngã vào Thị Nở, Chí không nhìn ra cái xấu ma chê quỷ hờn, cái dở hơi của Thị, nhưng rồi lúc Chí tỉnh lại Chí chấp nhận cái xấu xí ấy và còn mang lòng yêu. Còn gì có thể khiến người bỏ qua tất cả, khiến con người ta nhìn thấy xấu cũng thành đẹp, ngoài tình yêu. Tình yêu ấy đến với Chí cũng như một cơn say, dù thị bị hắt hủi vì xấu đến đâu thì với hắn, hắn thấy thị có duyên lắm. Chính vì say Thị Nở thật lòng như vậy mà Chí Phèo cảm nhận được hương vị của cuộc sống quanh mình. Qua những chi tiết trên ta thấy, rõ ràng tính thiện của Chí đã trở lại, thể hiện qua hắn nhìn nhận Thị Nở. Trong khoảng thời gian bên nhau, Chí Phèo có lúc hồn nhiên và “thấy lòng mình thành trẻ con” và còn “muốn làm nũng với Thị”. Rồi hắn lại ước trở lại, ước mơ về một gia đình nhỏ của riêng mình. Hắn còn nghĩ “Giá cứ như thế này mãi thì thích nhỉ” và còn nói với Thị Nở “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Trước những chuyển biến tâm lý này của Chí, ta một lần nữa lại khẳng định sức mạnh của tình yêu đối với việc cứu rỗi trái tim con người. Đồng thời ta cũng thấy được cái nhìn nhân đạo của nhà văn hiện thực Nam Cao. Nhưng phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy, cái đỉnh điểm của tâm lý nhân vật là ở chỗ, sau khi ước mơ về gia đình, Chí them lương thiện và muốn làm hòa với mọi người. Hắn khát khao thoát khỏi hình hài lẫn tâm tính của một con quỷ, hắn không muốn là một kẻ rạch mặt ăn vạ nữa. Và những ngày bên Thị Nở, Chí Phèo đã thực sự trở lại làm “con người”, đúng nghĩa. Ngỡ rằng Thị Nở sẽ mãi là “thiên sứ” của cuộc đời Chí. Nhưng rồi định kiến của bà cô Thị hay của chính cái xã hội cũ đã chặt đứt chiếc cầu đưa Chí trở về với con người lương thiện, bởi Thị bị bà cô mắng nhiếc và nhất quyết đoạn tuyệt với Chí. Và Chí Phèo thực sự rơi vào bi kịch một lần nữa, một bi kịch đau đớn hơn hết thảy. Đó là bị cự tuyệt quyền làm một con người lương thiện, hiền lành. Thị Nở xuất hiện trong đời Chí tưởng là ngọn lửa mãnh liệt của hi vọng, nhưng thực ra chỉ là một đốm lửa vừa nhen cháy đã vụt tắt. Hình ảnh Chí “ngẩn người” rồi còn như thấy “thoang thoảng hơi cháo hành” đâu đây, khiến người đọc không khỏi nghẹn lòng, thương cảm. Hương vị bát cháo hành là hương vị của tình yêu như vừa mới đây mà nay đã không còn nắm bắt được. Nhưng đau đớn thay, nó vẫn cứ quanh quẩn và càng làm tăng thêm bi kịch tình của Chí. Cái ngẩn người của Chí là vì thất vọng, chua xót, cay đắng trước hiện thực không gì tuyệt vọng hơn, đó là hắn bị cự tuyệt bị vứt bỏ không chỉ bởi xã hội làng Vũ Đại, mà ngay cả một người đàn bà xấu xí như Thị Nở cũng không coi hắn là một con người. Rồi Chí Phèo khóc. Hắn ôm mặt và khóc rưng rức. Cái tiếng rưng rức ấy là tiếng khóc oan ức, đau đớn, tuyệt vọng. Những giọt nước mắt của Chí là đỉnh điểm của những đớn đau, tủi nhục của kiếp người hắn đang mang. Tuyệt vọng Chí Phèo tìm đến rượu, nhưng lần này hắn càng uống càng tỉnh, bởi ý thức đã trở về từ khi gặp Thị Nở. Bị kịch và căm phẫn thay khi hắn không gửi thấy mùi rượu mà chỉ nghe thầy mùi cháo hành thoang thoảng. Hương vị bát cháo hắn từng được nhận, nhưng chỉ một lần duy nhất trong đời ấy khiến hắn càng chìm trong nỗi khổ đau vôn hạn của thân phận mình. Phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy nút mở của câu chuyện là ở chỗ, Chí uống rượu và vác dao đến nhà thị Nở với quyết định “đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Nhưng bất ngờ nhưng cũng hợp lý đến tài tình, khi Chí đi thẳng đến nhà Bá Kiến. Chí chỉ tay vào mặt tên địa chủ độc ác và đánh thép kết tội. Chí hét lên câu hỏi “Ai cho tao lương thiện?” trước mặt Bá Kiến. Câu hỏi có lẽ không phải chỉ cho Bá Kiến mà cho cả xã hội của làng Vũ Đại. Và đó là câu hỏi chất chứa nỗi phẫn uất, day dứt tâm can người đọc nhất. Nhưng câu hỏi ấy cũng như một lời khẳng định hắn nói với chính mình rằng, chẳng có ai có hắn lương thiện cả. Bởi vậy, hắn giết chết Bá Kiến và tự kết thúc đời mình. Hạnh động trên của Chí Phèo thể hiện người nông dân như Chí đã lâm vào bước đường cùng. Cuộc đời còn nghĩa lý gì không được làm một con người lương thiện. Vậy thì, chỉ có cái chết mới làm cho sự lương thiện của Chí Phèo được hồi sinh. Và cái chết của Chí Phèo là lời tố cáo đanh thép nhất cái xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, đã đẩy những người nông dân hiền lành, chất phác, lương thiện cào con đường bần cùng hóa, lưu manh và đến cuối cùng đẩy họ đến cái chết. Chỉ có xóa bỏ xã hội ấy, diệt bỏ xã hội ấy mới hy vọng những bi kịch cuộc đời như của Chí không xảy ra. Sau khi phân tích tâm trạng chí phèo trong toàn bộ thiên truyện của Nam Cao, ta thấy rõ tư tưởng nhân đạo mà nhà văn gửi gắm. Câu hỏi “Ai cho tao lương thiện?” của Chí Phèo cũng chính là tiếng lòng khẩn thiết, lời kêu cứu của Nam Cao đối rằng hãy trân trọng, bảo vệ và yêu thương con người. Kết luận khi phân tích tâm trạng chí phèo “Chí Phèo” của Nam Cao qua dòng thời gian gần một thế kỉ vẫn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong kho tàng văn học Việt Nam và trong tâm trí người đọc nhiều thế hệ. Sức hấp dẫn và giá trị của tác phẩm này thể hiện qua nhiều khía cạnh tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, cấu trúc tác phẩm là một vòng tròn khép kín như cuộc đời không lối thoát của Chí Phèo. Qua phân tích tâm trạng chí phèo ta thấy, những diễn biến nội tâm nhân vật này sau khi gặp Thị Nở là một phát hiện nghệ thuật và tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn lột tả nổi đau tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Đồng thời, tác phẩm chính là tiếng lòng thương cảm, cảm thông và bênh vực đối với những người nông dân mang trái tim lương thiện. Và ông khẳng định một điều rằng, dù trong hoàn cảnh nào, bản tính thiện lương ấy vẫn không bao giờ mất đi.
nghệ thuật chí phèo