🦎 Hệ Phái Khất Sĩ Là Gì
Theo tín ngưỡng thờ Mẫu, người có căn đồng là người sinh dương thế nhưng số hệ thiên cung, mệnh càn bóng quế, con cái của cửa Tứ phủ công đồng. Tín ngưỡng thờ Tứ phủ cho rằng, người có căn đồng là người đã được các Thánh chấm, không sớm thì muộn, tùy theo
Đang xem: Tịnh thất là gì. Khi Phật giáo truyền qua các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Campuchia, Lào…nơi thờ tự và tu tập được gọi là chùa. Những đại già lam chuyên tu thiền gọi là Thiền viện. Riêng hệ phái Khất sĩ
Quả báo gồm có 3 thời điểm: Hiện báo, hậu báo và sinh báo. Hiện báo: Là làm việc thiện hoặc ác liền có quả báo ngay trong hiện tại kiếp này. Do quả báo về thiện, ác của người này đang ở trạng thái cân bằng, hoặc gần cân bằng nên mốc thời gian trổ quả báo ngay
Ý nghĩa Giới Định Tuệ trong truyền thống Hệ phái Khất sĩ - HT. Giác Thành 02/10/2022 LienVu Hanh Hoa Sáng mùng 04/9/ Nhâm Dần (29/9/2022), ngày tu thứ 2 của khóa tu Giới Định Tuệ, lần thứ nhất của Giáo đoàn III, được tổ chức tại Tịnh xá Ngọc Đà (TP. Ba môn học Giới
Cuối tháng 8/2021, Cam bất ngờ trở lại với tần suất xuất hiện cao. Bằng chứng là những tương tác bình luận trên facebook cũng như các video lần lượt được đăng tải trên YouTube. Người hâm mộ đã cảm thấy vô cùng phấn khởi và hào hứng với màn "comeback" này. Đặc
Do đó, để tránh khỏi tình trạng ấy, người cư sĩ ngoài việc bản thân tu học ra, còn cần phải biết cách hộ pháp đúng, giúp cho các vị được mệnh danh là Sứ giả của Như Lai, bậc được tôn kính trong mọi người (Chúng trung tôn) vững tiến, đúng hướng, an định trong
Đau bụng bên phải dưới rốn do các bệnh về đường tiêu hóa. Viêm đại tràng, tắc ruột cũng là một trong những nguyên nhân gây ra đau bụng phải. Bệnh nhân xuất hiện thêm các triệu chứng như cứng bụng, muốn đi đại tiện và đại tiện phân lỏng, đặc biệt khi ăn phải
Khoảng thập niên 40 của thế kỷ 20, tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, Phật giáo Việt Nam có thêm một hệ phái mới, do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập;. Với tinh thần nối truyền Thích Ca Chánh Pháp, Phật giáo Khất sĩ Việt Nam, Tổ sư đã sáng tạo nên một hệ phái Phật giáo biệt truyền chỉ có ở Việt Nam.
Phật giáo từ lâu đã trở thành quốc giáo ở Lào. Vào mỗi buổi sáng những phật tử mang lễ vật là đồ ăn chín ra trước cửa nhà dâng lên các nhà sư hành lễ khất thực. Trong ảnh là cảnh người dân ở tỉnh Pakse chuẩn bị dâng lễ vật cho các nhà sư đi khất thực. Hầu
fEQc. Năm 1981, hệ phái Khất sĩ gia nhập ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt nam. Bài viết tập trung đi vào một vấn đề có tính chất đặc thù của hệ phái Khất sĩ đó là hệ thống tổ chức của hệ phái. Hệ phái Khất sĩ ra đời năm 1944 tại Nam bộ, đây là hệ phái do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập. Tiêu chí mà hệ phái đặt ra là “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”, nâng cao về mặt tu tập và giải thoát, không phân chia Phật giáo theo Nam tông, Bắc tông. Sau một thời gian ra đời, hệ phái được nhiều người tìm hiểu, học hỏi, dần dần phát triển tín đồ, hệ phái ngày một vững mạnh. Năm 1981, hệ phái Khất sĩ gia nhập ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt nam. Bài viết tập trung đi vào một vấn đề có tính chất đặc thù của hệ phái Khất sĩ đó là hệ thống tổ chức của hệ phái. Có thể phân chia tổ chức của hệ phái thành ba thời kỳ. Thời kỳ đầu 1944 đến khi Tổ sư qua đời 1954 Thời kỳ từ 1954 đến 1981 Thời kỳ từ 1981 đến nay. 1. Thời kỳ đầu 1944 đến khi Tổ sư qua đời 1954 Sau khi chứng đạt Vô thường, Khổ, Vô ngã, ngộ đạo với pháp lý “Thuyền Bát Nhã”, năm 1944, đức Tổ sư Minh Đăng Quang bắt đầu truyền đạo. Năm 1947, Từ Huệ là người được ngài thu nhận làm đệ tử đầu tiên, sau đó là một học trò nhỏ là Giác Chơn. Chùa Linh biểu nay thuộc ấp 1, xã Tân Hòa Thành, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang là nơi khai mở đạo. Do hoạt động của hệ phái là khất thực, hóa duyên, những người hành đạo buổi đầu sống đời sống du tăng “không nhà cửa, chẳng vợ con gia đình quyến thuộc, không ở một nơi nào cố định, không bao giờ cất giữ tiền bạc ở trong người nên tổ chức giáo đoàn theo quy định của Tổ sư hình thành một đoàn du tăng khất sĩ“ cấp tổ chức được tính theo con số du tăng Một tiểu giáo hội là 20 vị Một trung giáo hội là 100 vị Một đại giáo hội là 500 vị Ban đầu đoàn du tăng khất sĩ lập một tiểu giáo hội. Đức Tổ sư vừa là bổn sư vừa là Sư trưởng Trưởng đoàn. Trong quá trình du tăng hành đạo đi đến đâu một mặt giáo đoàn tổ chức truyền đạo, mặc khác giáo đoàn lo xây cất cơ sở thờ tự. Sau gần 10 năm, đoàn du tăng khất sĩ dưới sự hướng dẫn của Tổ sư hình thành được 27 ngôi tịnh xá. Trước lúc thọ nạn, Tổ sư “sắp đặt giao phó chức quyền chưởng quản giáo hội cho Thượng tọa Giác Chánh, người đệ tử tâm đắc”. 2. Thời kỳ từ 1954 đến 1981 Thời kỳ từ 1954 đến 1975 Thượng tọa Giác Chánh với cương vị chưởng quản giáo hội tiếp tục dẫn đoàn du tăng đi hành đạo. Tài liệu của Giác Duyên cho biết “Trong lần ra miền Trung đầu tiên vào năm 1956, một số vị đại đệ tử của đức Tổ sư đã ở lại nơi đây để hành đạo và lập nên hai giáo đoàn, giáo đoàn 2 của Trưởng lão Giác Tánh, Giác Tịnh và giáo đoàn của Trưởng lão Giác An. Lần lượt sau đó, năm 1959 giáo đoàn Thượng tọa Pháp sư Giác Nhiên được thành lập, năm 1960 giáo đoàn của Trưởng lão Giác Lý cũng hình thành, rồi năm 1962 Thượng tọa Giác Huệ lập nên giáo đoàn mới. Bên chư ni có các đoàn hành đạo như đoàn Ni trưởng Huỳnh Liên, đoàn Ni trưởng Ngân Liên, đoàn Ni trưởng Trí Liên… Sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập vào ngày 07/11/1981, Chư tôn đức lãnh đạo các giáo đoàn đã ổn định tổ chức, thay đổi danh xưng là giáo đoàn I, giáo đoàn II, giáo đoàn III, giáo đoàn IV, giáo đoàn V, giáo đoàn VI”. Cần lưu ý là, mỗi giáo đoàn đều có một Trưởng lão đứng đầu, hoằng pháp ở một số tỉnh nhất định. nếu như trước đây hoạt động hành đạo là du hóa dần dần bao gồm hai thành phần là Hành xứ và Trụ xứ. Đoàn hành xứ thực hiện hạnh nguyện du phương hóa nguyện. Đoàn Trụ xứ trụ trì tại các tịnh xá để tụ tập và điều hành phật sự của giáo đoàn. Đứng trước sự trưởng thành của Hệ phái, các vị Trưởng lão thấy cần thiết phải thiết lập một tổ chức giáo hội. Vì vậy năm 1964 ba Thượng tọa là Giác Nhiên, Giác Tường, Giác Nhu đứng ra xin phép thành lập Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam. Sau một thời gian vận động và chờ đợi, mãi đến ngày 22/4/1966, Bộ Nội vụ, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa mới chấp nhận cho phép thành lập Giáo hội với bản Điều lệ 32 điều theo nghị định số 405/BNV/KS cấp tại Sài Gòn. Bản Điều lệ 32 điều được “Làm tại Gia Định, ngày 18/12/1960” . Phần Danh hiệu - Hội sở - Mục đích cho biết. Giữa những người tu sĩ xuất gia thuộc Phật giáo công nhận bản điều lệ này, có thành lập một Hiệp hội tên là Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam Điều thứ nhất. Sở dĩ Hệ phái chỉ được công nhận là Hiệp hội vì vào thời điểm soạn thảo Điều lệ, Đạo dụ số 10, ngày 6/8/1950 dưới thời vua Bảo Đại vẫn còn hiệu lực. Theo Đạo dụ này, chỉ có Giáo hội Công giáo được công nhận là Giáo hội, các tôn giáo khác chỉ được xem xét công nhận là Hiệp hội. Điều thứ hai Giáo hội hoạt động vô thời hạn và trong phạm vi toàn quốc. Hội sở đặt tại Tịnh xá Trung tâm 98, đường nguyễn Trung Trực, Gia Định. Điều thứ ba Giáo hội kết nạp Tu sĩ xuất gia không phân biệt chủng tộc, cư trú tại Việt Nam, thành một tổ chức hiệp nhất, theo đuổi mục đích Tự giác, giác tha theo giáo lý của đức Phật Thích Ca. Bằng phương pháp trì bình khất thực và dạy đạo hỗ trợ cho cư sĩ trên đường tu học. Phần Thành phần của Giáo hội, gồm 01 Điều, Điều thứ sáu Giáo hội gồm có Tứ chúng, bất luận quốc tịch, bất luận hạng số, phân ra bốn hạng mỗi hội viên đều được giáo hội cấp cho một thẻ do Ban Trị sự lập ra, có thẻ này mới được dự phiên họp Đại hội. Phần Nhập hội - xuất hội và khai trừ gồm 11 Điều, trong đó từ Điều thứ mười đến Điều thứ mười bảy quy định về Ban Trị sự, quyền hạn chức năng của Ban và một số chức vị trong Ban. Điều thứ mười Ban Trị sự lo việc quản trị Giáo hội gồm có A – Một Tri sự Trưởng B – Hai Tri sự phó C – Một Thư ký D – Một Kiểm soát viên E – Một hay nhiều Cố vấn Điều thứ mười một Nhân viên Ban Trị sự được chọn lựa trong số Hội viên thuộc hàng Tỳ kheo tăng và Tập sự Tỳ kheo, được ít nhất là 21 tuổi. Các nhân viên ấy do Đại hội bầu cử để làm việc trong ba năm. Theo số thăm tuyệt đối đa số, và có thể được luôn luôn tái cử. Trong trường hợp hai ứng cử viên đồng số thăm, thì người lớn tuổi đạo hơn là được quyền đắc cử. … Điều thứ mười ba Trong thời kỳ sáng lập thì Ban khởi xướng tạm thời cai quản Giáo hội. Khi Điều lệ được chấp thuận rồi, Ban sáng lập sẽ nhóm Đại hội để cử Ban Trị sự thiệt thọ vào Lễ Tự tứ đương niên. Điều thứ mười bốn Tri sự trưởng chăm nom việc tu hành và để thi hành Điều lệ, mời nhóm các cuộc hội họp của Ban Tri sự và mời nhóm Đại hội khai mạc cũng như bế mạc. Các cuộc nhóm hội, khi số thăm trong các cuộc bỏ thăm chưa được ngã ngũ thì là thăm của Tri sự trưởng sẽ được thắng thế hơn. Tri sự trưởng thay mặt Giáo hội với nhà chức trách hay đối với tư nhân trong các trường hợp có dính dáng đến quyền lợi của Giáo hội. Tri sự phó giúp đỡ Tri sự trưởng trong các công việc, thay thế Tri sự trưởng khi vắng mặt hay bận việc… Điều thứ mười lăm Thư ký lo việc lập biên bản, viết thông tư, giấy mời… trong khi nhóm họp và giữ các tài liệu, cũng như quyển Danh bộ của Giáo hội, tên các hội viên. Điều thứ mười sáu Kiểm soát viên đặt dưới quyền Tri sự trưởng, đảm nhiệm việc trật tự, về tổ chức các phiên nhóm họp Đại hội, lãnh việc kiểm soát trong lúc tuyển cử. Kiểm soát tài vật của Giáo hội. Điều thứ mười bảy Cố vấn giúp đỡ ý kiến xây dựng và chỉnh đốn trong hàng ngũ để nâng cao về mọi mặt từ đời sống vật chất lẫn tinh thần . Về hệ thống tổ chức, bản Điều lệ cho biết Ngoài tổ chức Trung ương - Ban Tri sự , Hệ phái thành lập chi hội ở Tỉnh, quận, làng Điều thứ hai mươi sáu. Cơ sở cuối cùng của Hệ phái là Tịnh xá, Am Cốc Điều thứ hai mươi mốt. Ngoài ra ở Trung ương đến các chi hội đều có Phân ban Hoằng pháp. Bảo đảm nhận việc đọc kinh, tụng kệ, thuyết pháp phóng thanh truyền bá Phật giáo Điều thứ hai mươi bảy. Đồng thời Ban Hoằng pháp còn có nhiệm vụ Mở trường dạy học, mở các khóa huấn luyện về Phật pháp tại Trung ương cũng như các chi hội để giúp đỡ phật tử những phương diện cần thiết về đời sống tinh thần Điều thứ hai mươi tám. Bản Điều lệ còn cho biết có Ban Kiểm duyệt báo chí, kinh kệ, thi văn muốn phổ thông Phật pháp. Sau khi được Bộ Nội vụ công nhận Bản Điều lệ, các ngày 4-5-6/5/1966 Hệ phái Khất sĩ tiến hành Đại hội lần thứ nhất bầu Ban Tri sự. Một Ban Tri sự mới ra đời. Bao gồm Tri sự trưởng Thích Giác Nhiên Tri sự phó Giác Tường Tri sự phó Giác Phúc Tổng Thư ký Giác Nhu Phó Thư ký Giác Hườn Kiểm soát Giác Thọ Theo Giác Duyên kỳ Đại hội này chưa phải là Đại hội toàn quốc. Nó “có tính cách giải quyết vấn đề hợp pháp, hợp lý về mặt giấy phép thành lập Hội” . Phải đợi đến nhiệm kỳ II 1970 - 1973 mới thực sự là Đại hội toàn quốc. Một biến cố xảy ra trong nhiệm kỳ này là các vị Trưởng đoàn lần lượt viên tịch. Đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đại hội III, một Đại hội khoáng đại được triệu tập ngày 4/9/1973. Lần đầu tiên sau hơn 15 năm chia nhau đi hành đạo, 5 giáo đoàn được dịp họp mặt đông đủ. Đại hội đề nghị cải tổ thành phần lãnh đạo Trung ương gồm 2 Viện Viện chỉ đạo, gồm 1 đức Tăng chủ, 2 Phó Tăng chủ, 1 Chánh Thư ký. Các vị này thuộc hàng Trưởng lão Đạo sư chứng minh tối cao. Viện hành đạo gồm 1 Viện trưởng, 2 Phó Viện trưởng, 1 Tổng Thư ký, 1 Phó Tổng Thư ký và một số các Tổng vụ như Tăng sự, Hoằng pháp, Cư sĩ, Xã hội Cùng một Hội đồng Cố vấn Trung ương gồm các Trưởng lão, Thượng tọa cao hạ trong Giáo hội. Viện Hành đạo chịu trách nhiệm về đường lối hành đạo của Giáo hội, nhiệm kỳ của Viện là 5 năm 1973 - 1978. Đại hội cử Ban Tu chỉnh Điều lệ. Một bản Điều lệ mới ra đời gồm 26 điều thay thế bản 32 điều. Tuy nhiên về mặt pháp lý do bản Điều lệ 32 điều vẫn còn hiệu lực nên những vấn đề cải tổ giáo hội theo tinh thần Hội nghị khoáng đại chưa được chấp nhận. Ban Trị sự cũ vẫn tiếp tục lưu nhiệm để duy trì giáo hội cho đến ngày 30/4/1975. Thời kỳ từ 1975 - 1981 Mùa xuân năm 1975 đất nước thống nhất, hoạt động của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam cũng bắt đầu bước sang trang mới với những thay đổi và hoạt động mới. Về tổ chức Tại Trung ương một Đại hội khoáng đại bất thường được tổ chức vào ngày 17/6/1975 với sự tham gia của đại biểu 5 giáo đoàn. Hội nghị tiến hành kiểm điểm tình hình phật sự, kiện toàn Ban Trị sự Trung ương, tu chỉnh điều lệ kỳ II với 6 chương 27 điều. Đây là đại hội duy nhất và sau cùng của Giáo hội. Sau đại hội các vị Trưởng lão, Thượng tọa trong hàng Giáo phẩm Trung ương trước kia ở tịnh xá nào nay về trụ xứ tại Tịnh xá đó. Mọi sinh hoạt của giáo hội xem như đình chỉ. Các chư tăng cùng sống chung, lao động sản xuất và thực hành tôn giáo tại Tịnh xá. Giác Duyên gọi đây là thời kỳ Dĩ hòa vi quý; Dĩ nông vi thiền; Dĩ tâm vi Phật . Về Giáo hội Khất sĩ Ni giới Từ thời đức Tổ sư còn tại thế trong hàng ngũ xuất gia của Giáo hội, ngoài tăng còn có ni. Tác giả Thích Giác Duyên thống kê có tới 53 vị ni xuất gia làm đệ tử thời đức Tổ sư. Những phụ nữ sau khi thọ giới Cụ túc Tỳ kheo ni đều có pháp danh với từ cuối là Liên, ví dụ Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Kim Liên… . Ni giới Khất sĩ ban đầu do đức Tổ sư chỉ đạo. Sau khi ngài vắng bóng Ni trưởng Huỳnh Liên lãnh đạo Ni giới tiếp tục hành đạo. Ni giới thấy cần thiết phải thành lập giáo hội riêng để thuận tiện trong hoạt động du hóa. Một ban vận động được thành lập với Bản Điều lệ gồm 30 Điều, làm tại Sài Gòn ngày 18/10/1957. Bản Điều lệ được Bộ Nội vụ, chính quyền Sài Gòn duyệt y theo nghị định số 7/BNV/NA/P5. Trên cơ sở của Nghị định số 7, ngày 11/1/1958 Ni trưởng Huỳnh Liên đứng ra thành lập Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam. Đây là giáo hội độc lập về mặt tổ chức và phát triển, có pháp nhân, pháp lý. Trụ sở của Giáo hội đặt tại tịnh xá Ngọc Phương nay là số 491/1 đường Lê Quang Định, phường 1, quận Gò Vấp, Chí Minh. Bản Điều lệ, phần Danh hiệu - Hội sở - Mục đích, Điều thứ nhất quy định Giữa những người nữ tu xuất gia thuộc Phật giáo công nhận Bản Điều lệ này, có thành lập một Hiệp hội tên là Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam, đặt dưới chế độ Dụ số 10, ngày 6/8/1950. Như vậy, cũng như Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt nam, Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam theo Đạo Dụ số 10 ngày 6/8/1950 chỉ được xem là Hiệp hội. Về Thành phần giáo hội, Điều thứ sáu quy định Giáo hội gồm có hội viên là Ni cô, bất luận quốc tịch, bất luận hạn số, phân ra bốn hạng Tỳ kheo ni, tập sự Tỳ kheo ni, sadini và tập sự sadini. Về tổ chức lãnh đạo cấp Trung ương của ni giới giống như tăng giới. Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Tri sự trưởng, Tri sự phó, Thư ký, Kiểm soát viên, Cố vấn của Ni giới giống như Điều lệ của Tăng giới đã trình bày ở phần trên. Về tổ chức địa phương, ở tỉnh lập chi hội. Các chi hội đều phải tuân theo Điều lệ của Giáo hội Ni giới nhưng có quyền tự trị về các công việc địa phương của chi hội Điều thứ hai mươi nhăm. Mỗi chi hội tỉnh có một Ban Tri sự Trung ương Điều thứ hai mươi sáu. Tri sự trưởng Bạch Liên Tri sự phó Thanh Liên Thư ký Thành Liên Kiểm soát viên Chơn Liên Cố vấn Tạng Liên. Trên thực tế về mặt tổ chức của Ni giới cho thấy trong một số giáo đoàn Tăng có phân đoàn Ni giới như Hai phân đoàn Ni giới trực thuộc Tăng đoàn IV, một phân đoàn Ni thuộc tăng đoàn III. 3. Thời kỳ từ 1981 đến nay Năm 1981, Hệ phái Khất sĩ là một trong 9 tổ chức Phật giáo hợp nhất thành một tổ chức mới với tên gọi Giáo hội Phật giáo Việt Nam. “Đoàn Đại biểu Khất sĩ tham dự hội nghị do Hòa thượng Thích Giác Nhu làm Trưởng đoàn, Hòa thượng Thích Giác Phúc Phó Trưởng đoàn, Ni sư Thích Nữ Tố Liên Thư ký đoàn cùng một số thành viên”. Từ đây Hệ phái Khất sĩ cùng với hai hệ phái Bắc tông và Nam tông là 3 hệ phái chính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sau khi gia nhập ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ có điều kiện hơn để phát triển giáo hội về tổ chức, hoạt động nghi lễ và các hoạt động văn hóa - xã hội từ thiện. Về lĩnh vực tổ chức, đến năm 1982, Hệ phái Khất sĩ có thêm một giáo đoàn vốn do cố Hòa thượng Giác Huệ thành lập gia nhập hệ phái trở thành giáo đoàn VI. Một đoàn do cố Trưởng lão Từ Huệ lập năm 1950 hoạt động rải rác ở các tỉnh miền núi, miền Trung và Nam bộ gia nhập Giáo đoàn IV vào tháng 7/2007. Kể từ năm 1982, Hệ phái Khất sĩ có 6 giáo đoàn Tăng và 1 Đoàn Ni giới, riêng 3 phân đoàn Ni giới nằm trong Giáo đoàn III và IV. Về Giáo đoàn Tăng đến năm 2012 trải qua 3 kỳ đại hội, theo đó là mô hình tổ chức ngày càng được củng cố. Mô hình tổ chức Trung ương của Hệ phái nhiệm kỳ một 1991 - 1996 Ban Chứng minh Ban Thường trực [gồm Trưởng ban, phó Trưởng ban, Thư ký Tổng Thư ký, Phó Tổng Thư ký, Kiểm soát, các Ủy viên]. Nhiệm kỳ này không có các tiểu ban. Nhiệm kỳ hai 07/09/2009 có thêm 4 tiểu ban. Tiểu ban Tăng sự Tiểu ban Giáo dục Tiểu ban nghi lễ Nhiệm kỳ ba 02/09/2012 ngoài 4 tiểu ban trên có thêm Tiểu ban Hoằng pháp. Như vậy đến nhiệm kỳ 3, hệ thống tổ chức Trung ương của Hệ phái Khất sĩ gồm Ban Chứng minh, Ban Thường trực và 5 tiểu ban. Như phần trên đề cập Giáo đoàn Ni giới của hệ phái Khất sĩ gồm có 1 Đoàn Ni giới và 3 phân đoàn Ni giới nằm trong Giáo đoàn III và IV. Trong đó Giáo đoàn IV có phân đoàn 1 và phân đoàn 2, Giáo đoàn 3 có phân đoàn III. Về tổ chức mỗi phân đoàn có cách gọi khác nhau Với Phân đoàn 3, nhiệm kỳ I 1981 - 1984, nhiệm kỳ II 1985-1989, nhiệm kỳ III 1990 -1994 gồm có các chức Trưởng ban, Phó ban, Thư ký. Nhiệm kỳ IV hệ thống tổ chức có sự thay đổi gồm Ban Quản sự, Ban Thư ký, Ban Giáo luật, Ban Hoằng pháp, Ban Thủ quỹ, Hội đồng Tỳ kheo Ni. Với Phân đoàn 2 từ năm 1981 đến năm 2003, hệ thống tổ chức gồm Trưởng Phân đoàn, Phó Phân đoàn. Từ năm 2003 thêm các Ban như Ban Cố vấn, Ban Tăng sự, Kiểm soát, Từ thiện, Hội đồng Tỳ kheo Ni. Do đặc thù, Giáo đoàn III có 2 Phân đoàn Ni giới, mùa Vu Lan 1998, dưới sự cố vấn chứng minh của Hòa thượng Thích Giác Ngộ, Ban Quản chúng Ni được hình thành, mục đích hợp nhất hai Phân đoàn Ni 1 và 2 thành một tập thể thống nhất có lãnh đạo, nội quy sinh hoạt theo một hệ thống nhất định. Tại nhiệm kỳ 1 1998 - 2004 một hệ thống tổ chức ni giới thuộc Giáo đoàn IV ra đời gồm Ban Chứng minh Trưởng ban, Phó ban, Thư ký, Phó thư ký, Giám luật, Phó Giám luật, Thủ quỹ, Ủy viên. Ngày 30/12/2003 thành lập Hội đồng Tỳ kheo ni. Tổ chức nhiệm kỳ II 2004 - 2007 giống như nhiệm kỳ I, năm 2007 - 2009 Ban Quản chúng Ni đoàn IV lưu nhiệm. Nhiệm kỳ IV 2009 - 2012 có thêm Ban Tăng sự và một số đặc trách các Phân ban. Về tổ chức Ni giới Phần trên bài viết đã trình bày về Giáo hội Khất sĩ Ni giới. Tổ chức được thành lập trên cơ sở nghị định số 7/BNV/NA/P5. Hệ thống về cơ bản được duy trì cho đến hiện nay. Tổ chức Ni giới ngoài việc thực hiện các điều luật đã được quy định trong Giới bổn và 114 Điều răn của Tổ sư Minh Đăng Quang, ngày 05/03/1992 dưới thời kỳ lãnh đạo của Ni trưởng Bạch Liên cho áp dụng Nội quy Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Bản Nội quy gồm 18 Điều “nhằm mục đích làm cho Ni giới Khất sĩ Việt Nam ngày càng xứng đáng là một tập thể IV “giới đức, trang nghiêm tu học, song hành, giữ vững giềng mối xưa, làm rạng danh Thày Tổ” . Đến thời điểm 2010, Giáo hội Ni giới của Hệ phái Khất sĩ trải qua 4 đời Ni trưởng. Tính đến thời điểm năm 2010, Ni giới Hệ phái Khất sĩ thuộc Tổ đình Ngọc Phương hiện nay có 148 tịnh xá, 33 tịnh thất, 21 chùa và 1034 vị ni chúng xuất gia tu học tính từ Sadini trở lên. Hằng năm đều có tổ chức khóa An cư Kiết hạ để chư ni các miền tịnh xá tập trung về thọ học Kinh, Luật, Luận, thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. 70 năm đã trôi qua kể từ khi Đức Tổ sư khai sáng ra Hệ phái dù trải qua những thăng trầm và dù gia nhập vào ngôi nhà chung của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, về hệ thống tổ chức, một mặt, Hệ phái có đại biểu của mình vào Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và một số ban ngành của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mặt khác Hệ phái vẫn duy trì những nét đặc thù về hệ thống tổ chức. Đó chính là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp mà đức Tổ sư đã dày công tạo dựng và các bậc Tôn đức lãnh đạo kế thừa. PGs Hồng Dương - Viện Nghiên cứu Tôn giáo/Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 3 năm 2014
Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, về sau là Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, và ngày nay là Hệ phái Khất sĩ 1981 là 1 trong 9 tổ chức thành viên của Giáo hội Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể vào sự thống nhất và phát triển bền vững của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hôm nay. Đạo Phật Khất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam, chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáo biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, mở đạo vào giữa năm 1944 ở Nam bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”.Bạn đang xem Sức Hấp Dẫn Của Đạo Phật Khất Sĩ Là GìNếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 70 năm 1944-2014. Quảng thời gian này là quá ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Nhưng Đạo Phật Khất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam bộ. Bấy giờ, giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo Phật Khất sĩ đã lớn mạnh. Nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bát chân truyền và đem giáo lý từ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo Phật Khất sĩ đã được truyền bá rộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung bộ từ Huế, Quảng Trị trở vào. Rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp toàn cõi Việt Nam và đang truyền bá ở vài châu lục tại một số nước trên thế giới như Úc, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Canada...Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Theo chủ quan của tôi, cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo Phật Khất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng. Và các hàng đệ tử kế tục đã biết vận dụng giáo lý Khế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn, một cách uyển chuyển vào thực tế đời sống xã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác. Với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thống Phật giáo, đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Sự dung hợp này thể hiện ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau, mà ở đây bước đầu chúng tôi chỉ xin nêu những điểm nổi bật và dễ nhận thấy mà thôi. Từ thực tiễn hoạt động hoằng dương chánh pháp của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm, chúng tôi tạm cho đó là sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sauMột là, hình ảnh của đoàn du tăng khất thực hóa duyên, sống đời phạm là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tùy thân, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chọn hình thức “tam y nhất bát”. Hình thức pháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩ Việt Nam giống như hình ảnh tăng đoàn đi khất thực hóa duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyện thọ giới Tỳ-kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức, và lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất gia tu học tại ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thủy, mà lúc Đức Thế tôn còn tại thế, Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông Theravàda vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ, nếu Phật giáo Nguyên thủy khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồ Phật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩ quy định tu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thu giới luật của Phật giáo Bắc nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu Pali hay Bhiksu Sançrit được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu là khái niệm của Bà-la-môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn. Trong đó, người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lý giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật, tương đương với thuật ngữ Sa môn thuật ngữ này cũng của Bà-la-môn giáo.Đúng ra, thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp xin pháp từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gian thế tục để khất thực xin ăn nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất người ăn xin, ăn mày ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Tăng Ni đạo Phật đều sống bằng khất thực hằng độ Khất sĩ hiện nay được duy trì ở các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Miên, Việt Nam... Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệ thân thiết giữa tu sĩ và dân chúng. Tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dường tu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới 250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ thì phải nương theo Tứ y pháp. Trong đó, có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ-kheo Khất sĩ phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền trí tuệ công đức thành tựu của Phật với tâm của mình, ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ.Xem thêm Cặp Siêu Quậy Thiếu Lâm Tiểu Tử Bất Ngờ Tái Hợp Sau 27 Năm, Còn Hôn Nhau Thắm Thiết Làm Fan Suýt "Đẩy Thuyền"Hai là, tôn chỉ và chí nguyện của Hệ chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo Phật Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ, mà tư tưởng giáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sư Minh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia, và tự nghiên cứu Tam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam. Cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởng chính yếu trong giáo pháp của hai truyền thống Phật giáo này để nêu lên phương pháp hành trì tu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực, và tư tưởng giải thoát của đạo Phật Nguyên thủy từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Chính Tổ sư Minh Đăng Quang đã có bài thi kệ chép trong bộ Chơn lý của Ngài“Nhất bát thiên gia phạn,Cô thân vạn lý cùng sanh tử lộ,Khất hoá độ xuân thu”.Tạm dịch Một bát cơm ngàn nhà,Một mình muôn dặm dứt đường sanh tử,Xin pháp, độ ngày qua. NCL dịchBộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lý đạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lý vũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Trên cơ sở đó, Ngài đề ra những phương pháp tu tập như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lý Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ. Với phương pháp diễn giải trực tiếp và lập luận rõ ràng vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam bộ nói riêng, của người Việt Nam nói những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhân con người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lực tinh cần tu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đường Chánh đạo như lời Đức Phật đã thêm Thế Nào Là Tình Yêu Chân Thành Là Gì, Dấu Hiệu Nhận Biết Của Một Người Chân ThànhChính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồ Phật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháp tu hành, trong sở đắc. Nên chỉ trong trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái 1944 đến lúc Ngài vắng bóng 1954, tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thức tâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạo vững vàng mà bao thế hệ truyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểm nổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tử kế tục nối truyền, và nhất là đến hôm nay, Đạo Phật Khất sĩ đã hiện diện trên khắp tất cả các châu lục mà ở trước có giới thiệu qua.
Lượt xem 672 Tác giả bài viết ĐĐ. THÍCH NGUYÊN THẾ TÓM TẮT Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Việt Nam ra đời vào năm 1954 tại Sài Gòn, tổng đàn của hệ phái là Tổ đình Linh Quang tịnh xá quận 4. Hiện tại Tăng trưởng của hệ phái là Hòa thượng Thích Từ Giang. Bài viết này nhằm giới thiệu khái lược về quá trình hình thành, phát triển của một hệ phái Phật giáo ra đời đã ra đời trong thập niên 40 của thế kỷ XX và vẫn đang tồn tại và tiếp tục đóng góp cho ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ khóa Khất sĩ Bắc tông, Linh Quang Tịnh xá. ** * Dẫn nhập Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Việt Nam còn được biết đến với các tên gọi khác nhau như Khất sĩ Đại thừa, Khất sĩ đại sư Huệ Nhựt. Tổ chức Phật giáo Khất sĩ này do Đại sư Huệ Nhựt 1903 – 1950 khai sáng vào năm 1945. Cơ sở đầu tiên là chùa Linh Bửu Cầu Hang – Gò Vấp nay đã không còn. Đại sư Huệ Nhựt tục danh là Hồ Cang, vốn xuất thân từ tổ đình Linh Sơn Tiên Thạch Núi Bà Đen – Tây Ninh, nối truyền dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán Tế Thượng Chánh Tông đời thứ 45, được hòa thượng bổn sư Nguyên Cơ – Giác Phú ban pháp hiệu là Quảng Thạnh – Huệ Nhựt. Sau khi, hòa thượng bổn sư viên tịch, Đại sư Huệ Nhựt trở về lại Sài Gòn, lấy nền nhà cũ là nơi tu niệm. Năm 1938, nhận thấy được sự biến thiên của thời cuộc, đạo pháp suy vi, những giá trị chân chánh của Phật giáo ngày càng bị lãng quên, Đại sư đã quyết định thực hành hạnh đầu đà khất sĩ, sáng lập hệ phái mới, lấy tên gọi là “Khất sĩ Bắc tông Việt Nam”. Phương châm hành đạo là “Ngọn đèn không tim tỏa sáng nhà Phật giáo truyền”, xiển dương ngọn cờ “Thích Ca chánh tông” và đặt tên cho tịnh thất của mình là Linh Bửu Tự. Tài liệu chính yếu được đại sư trước tác là quyển “Pháp môn Đáo bỉ ngạn” đã ấn hành và phổ biến vào năm 1945, trong khi ngài đang trụ trì và hành đạo tại chùa Vạn Thọ phường Tân Định, quận 1. Trong giai đoạn trước năm 1975, tại đô thành Sài Gòn, có rất nhiều đoàn thể Khất sĩ khác nhau du hóa và hành đạo. Ngoài đoàn Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt 1945 còn có các tổ chức Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam của tổ sư Minh Đăng Quang 1947, Liên tông Tịnh độ non bồng của ngài Thiện Phước – Mẫu Trầu 1957, Khất sĩ Sơn Lâm 1960, Giáo đoàn Khất sĩ Ca Diếp – Kasyapa 1972, nhóm khất sĩ thuộc Giáo hội Tịnh Độ tông Việt Nam 1955, Khất sĩ tu tịnh của ngài Từ Huệ 1952 và Giác Bảo 1954, vậy, có nhiều tổ chức Phật giáo mang hình thức Khất sĩ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Tuy có tương đồng về phương diện hình thức nhưng vẫn có những sự khác biệt cơ bản về mặt tư tưởng và phương thức hành trì. 1. Một số nét đặc thù của hệ phái Khất sĩ bắc tông Việt Nam Pháp môn và tông chỉ Sau khi Đại sư Huệ Nhựt “liễu đạo”, Ngài đã công bố điều đó qua những câu nói được ghi lại trong quyển “Pháp môn Đáo bỉ ngạn” như sau “Bần Tăng vừa tỉnh giấc chiêm bao” hay “Phật pháp ra đời ngày rằm tháng 7 năm Ất Dậu” trong phần “Tiểu tựa” và “Tế thượng chánh tông”. Từ đó, Ngài khẳng định “Ngôi Tam bảo của ta có đủ sẵn sàng không thiếu vật chi, ta cần gì tầm kiếm nữa.”. Từ đó, thành lập tăng đoàn, hệ phái “Khất sĩ Bắc tông Việt Nam” lấy phương châm là “Ngọn đèn không tim tỏa sáng nhà Phật giáo truyền” và “Thích Ca chánh tông” làm mục đích hoằng pháp. Sau đó, Ngài đã tùy thuận trước tác quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn để làm phương tiện chỉ dạy đệ tử, đồ chúng những cách thức tu tập và sinh hoạt hàng ngày. Như trong phần “Tiểu tựa”, Đại sư đã nhắc nhở như sau “Bởi cớ ấy nên Bần tăng soạn làm một bài tựa là “Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn” theo điệu văn vần phổ thông và vắn tắt sơ lược, vì có một vài câu bỉ thô gay gắt nên e có người dị nghị… Tôi nghe Phật nói “Vô quái ngại, vô quái ngại…” Nên tôi làm lời tựa này mà khuyên thập phương bổn đạo, thiện nam tín nữ, y theo pháp môn này, mà tự tu, tự độ lấy mình, liên rõ đặng tà chánh và chí tâm niệm Phật ngày đêm chẳng quên, tự nhiên hết khổ não hết lo sợ, hết loạn tâm và các điều tai nạn tật bịnh, sanh tử liền hết chẳng sai..”.1 Và ở một đoạn khác Đại sư khẳng định lại “Huệ Nhựt Ta có một lời cảnh cáo trước với hết thảy ai là người muốn tầm ta mà học hỏi đạo. Ta xin trả lời trước rằng Ta thật không biết đạo chi cả. Nếu muốn biết Đạo thì cứ đọc tụng kinh Phật đó sẽ biết. Ta chỉ khuyên người niệm Phật một câu Nam mô A Di Đà Phật mà thôi…”.2 Pháp môn Đáo bỉ ngạn được viết theo lối văn vần, văn xuôi, có khi lại dùng các lối thơ cổ Đường luật tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát với lời lẽ bình dân, gãy gọn, mộc mạc. Bên cạnh đó, phần nghi lễ và dẫn giải về tư tưởng Thiền học, Đại sư vẫn theo truyền thống của Bắc Tông mà sử dụng âm Hán – Việt. Tập sách Pháp môn đáo bỉ ngạn có 42 bài viết ngắn gọn súc tích gồm 1. Chơn ngôn, 2. Tế thượng chánh tông, 3. Phép trừ tà đạo hóa nhơn tâm, 4. Tỉnh hồn, 5. Giúp tà quy chánh kiến, 6. Mê giác yếu ngôn, 7. Mê giác cần phải nhớ, 8. Độ tận nhân ngã tướng kiến tánh thành Phật, 9. Vô nhơn ngã tướng, 10. Tịnh độ yếu lý, 11. Yếu ngôn, 12. Niệm Phật cần phải biết, 13. Nói về phép Niệm Phật tam-muội và lý Thiền định, Tịnh độ, 14. Tự luận giải, 15. Pháp ấn tâm thế nào, 16. Sao gọi là Như Lai, 17. Lý đạo, 18. Chơn giả không thật, 19. Tự giác giác tha, 20. Vài điều chánh ngữ, 21. Minh tâm kiến tánh pháp, 22. Đức Di-lặc, 23. Giới định tuệ, 24. Bài tụng vô tướng, 25. Ngũ giới cấm, 26. Vô vi pháp, 27. Tâm yếu, 28. Sám tâm kinh, 29. Sám hối, 30. Lời cần yếu, 31. Cách tụng niệm mỗi ngày, 32. Phép tắc tụng kinh, 33. Phép tắc trì chú Chuẩn Đề, 34. Lời khuyên nhủ, 35. Phép tắc niệm hương, 36. Phép tắc thiền định, 37. Nam mô A Di Đà Phật, 38. Phép tắc tọa thiền niệm Phật, 39. Ngũ giới hương, 40. Kệ văn, 41. Phép tắc thường dùng, 42. Sám ca cầu hồn. Nội dung quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn không đề cập đến việc Đại sư tuyên bố lập phái hay xiển dương hoặc chỉ trích bất cứ một pháp môn, truyền thống nào; cũng không quy định cụ thể những phép tắc dành cho chúng xuất gia thọ giới, y bát, xây dựng hệ thống tổ chức, phát triển cơ sở, Quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn là một tập hợp các bài học, tư tưởng phổ biến của Phật giáo Bắc tông. Sự dung hợp đầy đủ các pháp học tổng hợp từ Thiền, Tịnh, Mật và Luật tông Tì-ni nhật dụng, không có sự phân biệt giữa các truyền thống. Đại sư đã Huệ Nhựt không câu nệ bởi pháp môn, không xu hướng văn tự cao siêu mà đơn giản mộc mạc hoằng dương lời Phật dạy, theo cách gọi của Ngài là “Ngọn đèn không tim nhà Phật giáo truyền – Thích Ca chánh tông”. Hệ thống tổ chức và chức sắc, tín đồ Đối với đoàn Khất sĩ Bắc tông của Đại sư Huệ Nhựt việc quy định cụ thể về mặt số lượng, quy mô, hình thức chưa được cụ thể hóa. Từ khi Đại sư về chùa Vạn Thọ Quận 1 và bắt đầu thâu nhận đệ tử 1945 cho đến khi thọ nạn 1950 là một khoảng thời gian ngắn, số lượng đệ tử được ghi nhận là 11 vị Tăng và 10 vị Ni. Đại sư với vai trò vừa là Bổn sư, vừa là Tăng trưởng. Việc Đại sư viên tịch quá sớm, hàng đệ tử chưa được trao truyền đầy đủ tất cả tư tưởng và kế thừa một tổ chức chính danh là một điều thiệt thòi lớn đối với hệ phái Khất sĩ Bắc tông. Sự truyền thừa vẫn căn bản là phương pháp “Gia giáo” truyền thống, thầy dạy trò và học hỏi thêm từ sự gần gũi, “thân giáo” khi Đại sư còn sinh tiền. Như vậy, về mặt tổ chức trong và ngay sau khi Đại sư Huệ Nhựt qua đời, đoàn Khất sĩ Đại thừa vẫn chưa hình thành một hệ thống tổ chức cụ thể mà chỉ theo lối truyền thống sơn môn, pháp phái quy tụ một nhóm các vị tu sĩ Tỳ kheo trong tông môn cùng nhau tu học theo kiểu “thầy truyền trò” xiển dương chủ thuyết và tự tu tập theo con đường mà vị Thầy khai sáng của mình đã vạch ra, cụ thể ở đây là Đại sư Huệ Nhựt và quyển Pháp môn Đáo bỉ ngạn. Sau khi Đại sư lâm nạn, Tăng đoàn Khất sĩ Bắc tông như thuyền không người lái, thế hệ kế thừa chưa đủ mạnh và phải di chuyển về một địa bàn hoạt động mới Vũng Tàu; điều kiện sinh hoạt và hoằng pháp không mấy thuận lợi. Sau năm 1954, Hòa thượng Phổ Ứng với vai trò là Tăng trưởng mới đã hướng dẫn giáo đoàn trở lại Sài Gòn, bắt đầu xây dựng trụ sở chính là Tổ đình Linh Quang tịnh xá – tổng đàn của chư tăng thuộc Phật giáo Khất sĩ Đại thừa. Kể từ khi ngôi tổ đình được hoàn thiện đã trải qua 3 đời trụ trì là Hòa thượng Phổ Ứng, Hòa thượng Từ Giang và hiện tại là Thượng tọa Phong Nhã – Minh Huệ. Việc điều hành tổ chức vẫn y theo truyền thống với sinh hoạt kiểu sơn môn, tổ đình. Sự liên lạc gắn kết giữa các cơ sở trong tông môn rất giới hạn. Bên cạnh đó, tổ đình cũng chỉ công nhận và chịu trách nhiệm 5 cơ sở chính, trực thuộc quản lý và được xem là chi nhánh của tổ đình. Về mặt số lượng Tăng – Ni Theo thống kê của Thượng tọa Thích Phong Nhã – Minh Huệ đương nhiệm trụ trì của Tổ đình Linh Quang tịnh xá trong thời điểm hiện tại thì có 50 vị Tỳ kheo + Sa di 34 vị, Ni 16 vị và 6 cơ sở chính trực thuộc được công nhận và do Hòa thượng Từ Giang khai sơn của Khất sĩ Bắc tông. Do tình hình sinh hoạt đặc thù của tông phái này, các vị Tăng – Ni xuất chúng vì bất kì lý do gì, nghĩa là không còn chung sống, sinh hoạt chung với tổ đình, sẽ không được công nhận là thành viên của tông môn, dù cho vẫn duy trì các hình thức sinh hoạt như trước. Phương thức sinh hoạt Việc xuất gia, thọ giới của chư Tăng Khất sĩ Bắc tông không có tiền lệ lập đàn giới riêng như hệ phái Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang hay hệ phái Phật giáo nguyên thủy. Giới pháp của một vị Khất sĩ Bắc tông hoàn toàn đồng nhất với Tăng sĩ hệ phái Bắc tông. Việc cho xuất gia độ chúng Ni có từ thời Đại sư Huệ Nhựt và hòa thượng Phổ Ứng kế thừa. Ban đầu khi tăng đoàn vừa thành lập, chưa có cơ sở chính nên Đại sư chủ trương Tăng – Ni sống chung tu tập, để hỗ trợ nhau trên bước đường du hóa rày đây mai đó. Y và Bát là hai pháp khí không thể tách rời tu sĩ đệ tử Phật. Nó gắn liền với đời sống sinh hoạt thường nhật của Tăng – Ni và có những quy định rất rõ ràng được ghi chép trong Luật tạng và cách thức sử dụng hành trì. Tuy nhiên, do tính chất biệt truyền của mỗi hệ phái và văn hóa của từng quốc gia mà Phật giáo du nhập nên có những điểm cách tân về y phục và pháp khí cho phù hợp. Nhưng do mục tiêu là duy trì hình thức du tăng Khất sĩ, học hạnh của chư Bồ tát “Thượng cầu, hạ hóa” nghĩa là trên thì xin học Phật pháp, dưới hóa độ chúng sinh; nên các vị Khất sĩ giữ nguyên hình thức y áo nguyên thủy tương đồng với truyền thống Nam tông. Về phương diện hình thức, pháp phục của ni giới Khất sĩ Bắc tông giai đoạn đầu có điểm tương đồng với ni giới hệ phái Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang, nghĩa là vẫn quấn y vàng, mặc đồ vàng. Sau khi Đại sư Huệ Nhựt viên tịch, ni chúng do ni sư Thích nữ Diệu Tú điều hành. Việc tu học của chư ni rất cần sự hướng dẫn, dìu dắt của các bậc tiền bối, bên cạnh đó việc xuất gia thọ giới cũng phải nương tựa vào giới đàn và quý Ni trưởng Bắc tông. Vì vậy, việc y chỉ vào ni giới Bắc tông là một việc làm đúng pháp và cần thiết. Sự gần gũi trong việc tu tập và tư tưởng giữa Bắc tông và Khất sĩ Bắc tông là một sự thật hiển nhiên, dẫn đến việc chuyển đổi trong trang phục pháp phục là sự tất yếu. Ngày nay, hầu hết chư ni tại Linh Quang tịnh xá cơ sở ni có cách ăn mặc tương đồng như hệ phái Bắc tông. Các đoàn thể, tổ chức Khất sĩ đã thông qua việc trì bình khất thực để hành đạo. Tuy nhiên điểm đặc biệt đối với nhóm Khất sĩ Bắc tông thời kỳ đầu đó là Đại sư Huệ Nhựt một tay ôm bình bát, một tay chống “Tích trượng” dẫn đầu đoàn khất sĩ vân du khắp nẻo đường ở Sài Gòn. Việc trì bình, khất thực này vẫn được duy trì sau khi Đại sư viên tịch. Thế nhưng, các vị Khất sĩ không còn dùng Tích trượng mỗi khi đi ra ngoài nữa. Mãi cho đến những năm gần đây, do tình hình chung về việc giả danh tu sĩ khất thực, xin tiền làm xấu đi hình ảnh của các vị Khất sĩ và Tăng đoàn, việc khất thực của chư Tăng – Ni đã bị tạm ngưng. Nghi lễ Sinh hoạt, nghi lễ của chư Tăng hệ phái đều kế thừa từ Phật giáo Bắc tông, vẫn duy trì các thời khóa cơ bản của các sơn môn xưa như Hô canh ngồi thiền, công phu sáng – chiều, cúng ngọ, quá đường, tịnh độ, vẫn dùng kinh nhật tụng bằng âm Hán – Việt xen lẫn các bài kệ, sám văn đã được Việt dịch và sử dụng phổ thông tại các chùa. Nghi thức thọ trai quá đường là một trong những thời khóa rất được chú trọng tại tổ đình để chú nguyện, cầu an, cầu siêu cho tín đồ thập phương và thân chủ của các tro cốt kí gửi tại chùa. Các bản kinh thường được sử dụng, đọc tụng hàng ngày gồm có Kinh Pháp Hoa, kinh Dược sư, kinh Di Đà, kinh Niệm Phật Tam muội, Đại bi sám pháp, Lương hoàng sám, ngoài ra việc hành trì pháp Mật tông chủ yếu bao gồm Ngũ bộ chú và chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm. Thứ tự, các bài kinh, chú, sám văn thống nhất với bố cục của kinh nhật tụng do Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn hành. Ngoài những thời kinh, lễ căn bản theo truyền thống Tịnh độ thì đáng quan tâm nhất là có những thời khóa trì chú, đây là thiên hướng đặc thù Mật tông như đã đề cập ở trước. Mặc dù, thực hành hạnh Khất sĩ và duy trì pháp môn tu Tịnh, chư tăng và cư sĩ Phật tử tại tổ đình vẫn thực hiện trì chú Lăng Nghiêm Sūraṃgama Samādhi Mantra vào thời khóa sáng và hành trì Đại bi sám pháp vào buổi chiều. Ngoài ra, còn có gia trì “tịnh thủy” để điều trị các bệnh về tâm linh, nghi thức này được thực hiện hằng ngày sau nghi thức “quá đường” khoảng 12 giờ với sự tham dự của các đạo hữu Phật tử có nguyện vọng và tin tưởng vào phương pháp gia trì tại tổ đình. Vì đó, nên từ lâu Tổ đình Linh Quang tịnh xá được biết đến với tên gọi “chùa nước lạnh”, nghĩa là dùng nước lạnh để trị các bệnh tâm linh. Trong thời khóa công phu tu tập tại tổ đình có mấy điểm đặc biệt đó là thời tụng kinh Pháp Hoa vào buổi sáng 08h giờ và trì chú Lăng Nghiêm vào buổi trưa 12 giờ, khóa lễ trì chú Đại bi vào buổi chiều trì 21 biến Đại bi và 108 Đại minh chú, Ngũ bộ chú, Nhìn chung thời khóa sinh hoạt tương đồng với các chùa Bắc tông tu Tịnh; tuy nhiên, việc dành 2 thời lễ đặc biệt cho việc hành trì mật chú cũng đã xác định việc thực hiện song hành cả hai pháp môn Tịnh – Mật. Nhờ vào sự gia tâm và hành trì mật chú nên việc thực hiện “chú nguyện bạt độ chư vong linh được tịnh chư nghiệp chướng, vãng sanh Cực lạc quốc”3 rất được tín đồ quan tâm và tham gia khóa lễ. Về cơ sở thờ tự Kiến trúc nổi bậc nhất của hệ phái ngôi Tổ đình Linh Quang tịnh xá quận 4. Ban đầu chỉ là một chòi tranh đơn sơ dùng làm nơi tu học cho đoàn du tăng. Từ năm 1963 – 1969, bắt đầu khởi công kiến thiết ngôi chánh và tiếp sau đó là lần lượt các công trình phụ cận để đáp ứng nhu cầu chỗ ở và nơi tu tập. Là cơ sở đầu tiên và cũng là trụ sở chính của hệ phái, tổ đình Linh Quang có những nét đặc thù độc đáo ở tính kế thừa kiểu kiến trúc mới trong giai đoạn chấn hưng nhưng vẫn gìn giữ lối trang trí cổ truyền. Điểm đặc biệt của Linh Quang tịnh xá là phía trước cổng Tam quan có chiếc cầu Long Hoa dẫn vào chùa. Bên trái của chánh điện từ trong nhìn ra là một tấm bia tưởng niệm có 2 mặt lược ghi tiểu sử của hòa thượng Phổ Ứng và lịch sử của ngôi Tổ đình Linh Quang. Kế đến là tòa tháp 7 tầng, thờ tôn tượng và linh cốt của chư vị tổ sư hệ phái, các tầng còn lại dùng để thờ tro cốt của tín đồ. Ngôi tổ đình là không theo lối truyền thống “Tiền Phật, hậu Tổ”. Khu vực thờ tổ được chuyển lên tầng cao nhất của ngôi tháp. Tòa nhà lớn nằm ở vị trí trung tâm là chánh điện. Tượng bổn sư Thích Ca bày vai trong tư thế xúc địa ấn Bhūmisparśa Mudrā được bố trí ở trung tâm. Bên cạnh đó phối thờ một số bộ tượng theo truyền thống tịnh độ như Bộ Tây phương Tam Thánh, Tiêu diện – Hộ Pháp, Mục kiền liên – Địa tạng, Khu vực ngoài bên phải là ban thờ Quan Âm Bồ tát, phía bên trái là khu vực trai đường và bàn Công đức lâm. Hai dãy tường trên trần cũng được vẽ các bức tranh mô tả về lịch sử cuộc đời của đức Phật, phía dưới các bức tranh là hai câu “Ánh sáng chơn lý chan hòa vũ trụ, Đức Từ bi bao phủ khắp muôn loài.” Từ phía trong chánh điện nhìn ra, bên dưới của bức phù điêu hình bàn tay nâng bánh xe chuyển pháp luân là dòng Hán tự “Phật đạo hoằng khai quy tứ chúng” Đạo Phật mở bày rộng khắp làm nơi quay về cho bốn chúng.. Từ phía mặt tiền của ngôi chánh điện có thể nhìn thấy tấm hoành bằng chữ Hán “Linh Quang tịnh xá”. Cách bài trí của ngôi chánh điện ảnh hưởng bởi chủ trương truyền bá tư tưởng Tịnh độ, không gian bên trong chánh điện được phân chia thành 3 phẩm rõ rệt theo phương pháp “Tam bối vãng sanh” Thượng phẩm thượng sanh tượng trưng cho khu vực ban thờ trung tâm của chánh điện. Trung phẩm trung sanh tượng trưng cho khu vực nơi chư tăng hành lễ. Hạ phẩm hạ sanh tượng trưng cho khu vực tín đồ Phật tử đến lễ bái, tụng niệm hàng ngày. Căn cứ theo cách thiết trí nơi chánh điện, để phân định rõ 3 phẩm thì Phần thượng và Trung phẩm được trang trí theo lối chạm, khắc phù điêu ao sen; còn phần Hạ phẩm là hình một ao nước xanh xung quanh và bờ đê có màu đất của Ngoài ra, còn có một số công trình phụ khác như, phòng khám từ thiện, văn phòng, thư viện, phòng phát hành, tăng xá, Tất cả công trình được xây dựng theo lối hiện đại nhưng vẫn giữ gìn được nét đặc trưng của văn hóa truyền thống và chùa Việt với đầu mái cong và họa tiết hoa sen. 2. Các hoạt động an sinh xã hội Với Bi nguyện của người con Phật là “Nhập thế hành đạo” và phương châm của Giáo hội là sống “tốt đời, đẹp đạo”, Phật Giáo việt Nam đã phát huy và kế thừa truyền thống gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Các tổ chức, cơ sở Phật giáo luôn tham gia tích cực vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xã hội. Các công tác góp phần an sinh xã hội của Phật giáo ngày càng sâu rộng, với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt, đạt hiệu quả và có những đóng góp nhất Trên tinh thần đó, các hoạt động xã hội đã được chư tăng Khất sĩ Bắc Tông và cụ thể là Hòa thượng Tăng trưởng Thích Từ Giang đặc biệt quan tâm và xem như một pháp môn tu tập. Hòa thượng Từ Giang cho rằng “Người của Hệ phái Khất sĩ Đại sư Huệ Nhựt luôn thực hành hạnh nguyện tùy hỷ, cùng phát triển tâm lành với mọi người, để phải trong các Phật sự, kể cả những nỗ lực thể hiện pháp lành vì người, hướng đến người, cho người trong các công việc từ thiện xã hội, khám bệnh miễn phí.”6 Đối với các công tác từ thiện thiên về lĩnh vực giáo dục, năm 1989, Hòa thượng Từ Giang đã được chính quyền và các cơ quan chức năng đồng thuận và xét duyệt đề án xây dựng một cơ sở từ thiện dân lập chăm sóc trẻ em khuyến tật trong địa bàn quận 4, tạo điều kiện cho các em được chăm sóc tốt hơn và phát triển kỹ năng sống, giảm thiểu gánh nặng cho gia đình của các em và xã hội. Theo quyết định số 442/QĐUB ký ngày 27/06/1989 của UBND Trung tâm giáo dục trẻ khuyến tật quận 4 Education Center for handicapped children được thành lập. Trung tâm do hòa thượng Từ Giang là giám đốc, ông Lý Văn Mai phụ trách chuyên môn và 26 nhân viên kiêm nhiệm nhiều công tác tại trung tâm. Đề án xây dựng và phát triển Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật quận 4 ghi rõ các đối tượng chính được hướng tới là Trẻ chậm phát triển trí tuệ, câm điếc, liệt chi, động kinh, suy dinh dưỡng, hội chứng Down. Trung tâm đề xuất hai nhiệm vụ chính đó là 1 Nuôi dạy, cải thiện sinh hoạt vui chơi, tạo điều kiện cho các trẻ em quên đi số phận bất hạnh của mình, đồng thời dạy văn hóa cho các em. 2 Điều trị bệnh tật, nâng cao đời sống, sức khỏe, phục hồi trí năng. Phương pháp trị liệu cũng là một trong những mối quan tâm chính yếu của trung tâm. Hòa thượng giám đốc đã đề ra các phương pháp áp dụng để chữa bệnh và phục hồi tâm sinh lý cho trẻ gồm 1 Các phương pháp y học Đông – Tây y kết hợp và chăm sóc nha răng cho trẻ. 2 Tâm lý trị liệu bao gồm nghe nhạc, văn nghệ, lao động, trò chơi, 3 Dưỡng sinh và võ thuật. 4 Bấm huyệt. 5 Phương thực ăn chay. Trung tâm y tế quận 4 xác nhận là mạng lưới cơ sở khám bệnh miễn phí của trung tâm. Việc vận dụng Y phương minh vào công tác hoằng pháp đã có truyền thống lâu dài và gặt hái nhiều thành công trong lịch sử Phật giáo. Kế thừa tư tưởng đó, Hòa thượng Từ Giang cũng đã phương tiện mở một phòng khám từ thiện đặt trong khuôn viên tổ đình tên là “Phòng khám bệnh nhân đạo Linh Quang”. Phòng khám từ thiện tại Linh Quang tịnh xá đi vào hoạt động từ ngày 01/03/1993 và đã được Hội chữ thập đỏ thành phố và quận 4. Hòa thượng Từ Giang đã có nhiều năm liền gắn bó với các công tác an sinh xã hội, với tinh thần từ bi và hạnh nguyện giúp đời đau khổ bằng cả tâm lực và nguyện lực, trong thì gia tâm, gia trì giúp đỡ phần an tâm cho các tín đồ, ngoài đi xuôi ngược đó đây cứu trợ thiên tai, từ thiện giúp đỡ người khi khó ngặt, kế thừa tư tưởng của Đại sư Huệ Nhựt, theo lời Ngài dạy trong phần tựa của Pháp môn Đáo bỉ ngạn “Tất cả phép “có làm” Như chiêm bao bọt bóng, Cũng như sương như chớp! Muốn làm gọi như vậy Có hình tất có hoại Ưa muốn nhiều tai hại! Biết rõ nghĩa Như Lai, Mới rằng mình làm đạo” Tư tưởng của Đại sư là người làm đạo hay các việc như đi đứng, nằm ngồi, thấy nghe, hay biết đều như bọt bóng, như ánh chớp, hạt sương. Vô thường chớp nhoáng, vụt có vụt không cho nên vô trụ vô chấp. Do đó, các hoạt động tu tập, hoằng pháp hay từ thiện giúp người đều âm thầm làm, làm xong thì buông bỏ, không vướng bận, không ghi chép, báo cáo, Kết luận Trong nhiều năm qua, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã có những đóng góp và thành tựu nhất định cho việc xây dựng, phát triển ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam và giữ gìn, hoằng truyền tư tưởng của các bậc tiền bối tổ sư ngày càng hưng thịnh, phát triển “Tổ ấn trùng quang”. Về phương diện nội bộ phát triển tông phong, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã hình thành được thêm các cơ sở trực thuộc, vệ tinh, số lượng nhân sự, thành viên của tông phong được đào tạo bài bản qua các trường lớp chuyên môn của Giáo hội cũng như ra nước ngoài. Về cơ sở vật chất, có thể nói tổ đình Linh Quang tịnh xá, tổng đàn của chư tăng Khất sĩ Bắc tông tuy không quá nguy nga nhưng cũng rất trang nghiêm, có màu sắc, điểm nhấn riêng. Kiến trúc đặc thù kết hợp giữa hiện đại và truyền thống, làm phong phú thêm cho mảng nghệ thuật Phật giáo thời cận, hiện đại. Đối với phương diện hướng ngoại như các công tác hoằng pháp, từ thiện xã hội, Tổ đình Linh Quang tịnh xá và hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã có những đóng góp nhất định cho vấn đề an sinh xã hội, cùng chung tay với chính quyền, nhà nước quan tâm giúp đỡ, cải thiện đời sống cho đối tượng cần được hỗ trợ. Dưới góc độ tiếp cận của Tôn giáo học, có thể nói hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã thực hiện được vai trò, chức năng hỗ trợ xã hội của mình bằng những việc làm cụ thể. Không chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ, hỗ trợ bằng những hành động mang tính thực tiễn như vật chất, tiền bạc, thuốc men, tổ đình còn chăm sóc và giúp đỡ bằng các liệu pháp tinh thần như cúng bái, cầu nguyện, gia trì, Tiến sĩ Trần Hồng Liên nhận định “Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật, cái chết của những những người thân thuộc, yêu quý và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống con người rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện được tình hình”.7 Vì vậy có thể nói, hệ phái Khất sĩ Bắc tông đã và đang thực hiện rất tốt vai trò của mình trong cả hai lĩnh vực “đạo” và “đời”, làm nổi bật lên được phương châm “Tốt đời, đẹp đạo”, “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa Xã hội”. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam 2001, Biên niên sử Phật giáo Gia Định – Sài gòn, thành phố Hồ chí Minh 1600 – 1992, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Hà Văn Tấn 1987, Về 3 yếu tố của Phật giáo Việt Nam Thiền, Tịnh, Mật, Tập Văn số 9, Ban Văn hóa TƯ GHPGVN. Hoàng Văn Chung Chủ biên 2019, Giá trị và Chức năng cơ bản của Phật giáo, NXB Khoa Học Xã Hội. Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội 1989 – 2004, NXB Tôn Giáo. 2004. Nguyễn Quốc Tuấn 2012, Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX, NXB Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội. Nguyễn Quốc Tuấn đồng chủ biên 2016, Hệ phái Khất sĩ Qua trình hình thành, phát triển và hội nhập, NXB Hồng Đức. Nhiều tác giả 2001, Nguồn sống an lạc, NXB Tôn Giáo. Phòng khám CTĐ nhân đạo, Linh Quang tịnh xá, Quận 4 – 2005, Đặc san Xuân Ất Dậu. Thích Đồng Hạnh, Sự phát triển và đặc điểm của Phật giáo Nam kỳ giai đoạn 1920-1945, Nguyệt san Giác Ngộ số 291 06/2020. Thích Giác Duyên 2014, Hệ phái Khất sĩ 70 năm hình thành và phát triển, NXB Tôn Giáo. Thích Hạnh Thành 2007, Tìm hiểu Phật giáo Khất sĩ ở Nam bộ trong thế kỷ XX, NXB Tổng Hợp – Tp Hồ Chí Minh. Thích Minh Chuẩn 2008, Hệ phái Khất sĩ Bắc Tông Đại sư Huệ Nhựt, Lưu hành nội bộ. Trần Hồng Liên 2004, Góp phần tìm hiểu Phật giáo Nam bộ, NXB Khoa Học Xã Hội. Trần Hồng Liên 2007, Phật giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp Trần Hồng Liên 2010, Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam, NXB Tổng Hợp _________1. Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. 2. Đại sư Huệ Nhật 1948, Pháp môn Đáo Bỉ Ngạn, NXB Tôn Giáo. 3. Thích Minh Chuẩn 2008, Hệ phái Khất sĩ Bắc tông Đại sư Huệ Nhựt, Lưu hành nội bộ, tr 112. 4. Linh Quang tịnh xá với những Phật sự và công tác xã hội 1989 –2004, NXB Tôn Giáo, 2004, tr. 5. 5. Thích Đức Thiện, Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ hội nhập quốc tế. Nguồn , truy cập 29/11/2020. 6. Nhiều tác giá 2001, Nguồn sống an lạc, NXB Tôn Giáo, tr. 182. 7. Trần Hồng Liên 2007, Phật giáo ở thành phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng hợp tr. 14. Nguồn Các hệ phái Phật giáo và tôn giáo mới tại vùng Nam Bộ, Ban chỉ đạo HT. Thích Trí Quảng; Ngô Thị Phương LanChủ biên Thích Nhật Từ, NXB Hồng Đức Thánh Địa Việt Nam Học
hệ phái khất sĩ là gì