🪁 Nhập Vai Mị Châu Kể Lại Chuyện An Dương Vương
Dàn ý đóng vai An Dương Vương kể lại truyện Mị Châu Trọng Thủy. I. Mở bài - Trọng Thủy xưng tôi giới thiệu về sự về sự xuất thân cả mình. - Dùng lời Trọng Thủy, dẫn dắt vào câu chuyện. II. Thân bài. 1. Trọng Thủy kể về lí do xuất hiện của mình trên mảnh đất
Nhập vai An Dương Vương kể lại chuyện Mị Châu - Trọng Thủy in progress 0 Văn Cora 2 tuần 2021-11-27T01:27:11+00:00 2021-11-27T01:27:11+00:00 2 Answers 4 views 0
Bài mẫu 3 - Nhập vai Mị Châu kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy. Tôi là Mị Châu, con gái của vua An Dương Vương. Được vua cha yêu thương hết mực nhưng tôi cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là
Đề 1 : Nhập vai nhân vật An Dương Vương ( hoặc Mị Châu, Trọng Thủy ) để kể lại câu chuyện Đề 2 : ( Kể sáng tạo ) : Hãy nhập vai nhân vật An Dương Vương, kể lại câu chuyện theo một kết thúc khác Đề 3 : ( Kể sáng tạo ): Sau khi tự tử ở giếng nước Loa Thành, xuống
Câu truyện mang lại một thông điệp cũng như bài học kinh nghiệm sâu sắc về lòng tin dựng và giữ lại nước. Bạn đang xem: Đóng vai trọng thủy kể lại câu chuyện. Với bài viết nhập vai Trọng Thủy đề cập lại mẩu chuyện An Dương Vương với Mị Châu, Trọng Tdiệt tiếp
Bạn đang xem: "Kể lại câu chuyện an dương vương mị châu trọng thủy". Đây là chủ đề "hot" với. Giới thiệu; Liên Hệ; Chính sách riêng tư; Hướng dẫn thanh toán; Chính sách hoàn tiền
Nhập vai Trọng Thủy kể lại chuyện An Dương Vương, Mị Châu-Trọng Thủy. Nhập vai Trọng Thủy kể lại chuyện An Dương Vương, Mị Châu-Trọng Thủy. O L M. Học bài; Hỏi đáp; Kiểm tra; Bài viết Cuộc thi Tin tức. Trợ giúp ĐĂNG NHẬP ĐĂNG KÝ 0. Đăng nhập Đăng ký
Đóng vai nhân vật Mỵ Châu hãy kể lại Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu, Trọng ThuỷTôi là con gái yêu quý của vua hùng An Dương Vương, Vì ngây thơ trong sáng không biết được âm mưu thâm độc của kẻ thù nên tôi đã bị người lừa dối, phạm vào tội hại cha bán nước
Bệnh vương thì tinh thần sảng khoái, khỏe khắn, nhìn mặt mày hơn hở của hắn cũng đủ hiểu tinh thần có bao nhiêu tốt. Thất vương phi lại mang vẻ mặt xấu hổ, kiều mị. Aizzz chuyện ân ái của vợ chồng nhà người ta thì không nên tọc mạch quá nhiều.
neTH. Hãy đóng vai Mị Châu trong truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” kể lại chuyện về cuộc đời mình Mở bài Giới thiệu vai kể Mị Châu và nêu tình huống truyện + Giới thiệu về bản thân + Giới thiệu về câu chuyện cuộc đời mình. Thân bài Kể lại diễn biến câu chuyện theo các sự việc tiêu biểu sau – Kết hôn với Trọng Thủy + Lí do kết hôn. + Cảm xúc bản thân khi kết hôn với Trọng Thủy vui/ buồn/lo lắng… – Những ngày chung sống với Trọng Thủy + Vui vẻ, quấn quýt, hạnh phúc,…biểu cảm + Cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần • Lí do nghe lời dụ dỗ ngon ngọt, tin yêu chồng… • Hành động đưa Trọng Thủy xem trộm nỏ thần • Suy nghĩ của bản thân khi cho chồng xem nỏ thần tin tưởng chồng, yêu chồng, nghĩ hai nước đã làm hoà … + Chia tay Trọng Thủy Lời từ biệt của chồng; hẹn với chồng sẽ rắc lông ngỗng làm dấu; Tâm trạng lưu luyến, bịn rịn. – Khi có giặc xâm lăng, không một chút nghi ngờ Trọng Thuỷ, ngồi sau lưng cha, rắc lông ngỗng làm dấu. – Rùa vàng kết tội là giặc, cầu xin được minh oan Nếu có lòng phản nghịch, mưu hại cha thì chết sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù. – Bàng hoàng tỉnh ngộ và suy nghĩ của Mị Châu về bài học từ cuộc đời mình Cần tỉnh táo, không được mất cảnh giác, phải đặt nghĩa nước lên trên tình nhà, không vì tình cảm riêng tư mà làm nguy hại đến vận nước. – Rồi đón nhận cái chết. Kết bài Kết thúc câu chuyện – Mị Châu khái quát lại câu chuyện về cuộc đời mình. – Ý nghĩa câu chuyện Mị Châu kể.
A. SƠ ĐỒ TÓM TẮT GỢI Ý B. DÀN BÀI CHI TIẾT I. Mở bài - Giới thiệu về chính mình theo nhân vật An Dương Vương và dẫn dắt đến câu truyện - Ta là An Dương Vương, vị vua của nước Âu Lạc năm nào. Nhớ năm xưa, chuyện ta dựng nước rồi làm mất nước mà đau đớn vô vàn. Đó có lẽ là bài học đắt giá nhất cuộc đời ta, và có lẽ là bài học thấm thía mà bất cứ ai cũng nên ghi khắc trong lòng. II. Thân bài Kể lại các sự kiện theo diễn biến của câu chuyện qua lời kể của nhân vật An Dương Vương - Năm đó, sau khi lên ngôi vua, ta bèn nghĩ việc xây dựng một thành lũy kiên cố để bảo vệ đất nước nhưng oái oăm thay khi xây thành hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. - Khi nghe mọi người nói rằng vùng đất nơi còn vương vấn những hồn ma của các vị tướng bại trận mà họ không cho ta thuận lợi đắp thành, ta lập đàn trai giới, cầu xin thần linh phù hộ. - Dường như ông trời đã ở nghe được lời muôn dân khẩn cầu, ngày mồng bảy tháng ba, một cụ già từ phương Đông đứng trước cửa thành mà than rằng “ Xây dựng thành này bao giờ cho xong được”, lấy làm lạ, ta bèn cho mời cụ vào thành - Khi biết đây là người trời phái đến giúp sức, ta mừng rỡ đón cụ già vào trong điện, thi lễ hỏi lý do đắp thành mãi không xong thì cụ già trả lời “ Sẽ có xứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”, rồi từ biệt ra về. - Sau đó, trong một lần ta bơi thuyền trên hồ, một con Rùa Vàng bất ngờ nổi lên mặt nước, nói sõi tiếng người, xưng là sứ Thanh Giang, ta mừng rỡ vội vã dùng xe nghênh đón, rước Rùa Vàng vào thành. - Nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, sau nửa tháng thì thành được xây xong, với hình dạng xoắn ốc, người ta gọi là thành Cổ Loa. - Rùa Vàng ở với thành ta được ba năm rồi ra về, ta bèn hỏi Rùa Vàng cách ứng phó khi giặc trở lại xâm lược nước mình. - Trước khi đi, Rùa Vàng tháo vuốt đưa ta, dặn “ Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”. - Nghe lời thần Kim Quy, ta ngày lập tức lệnh cho Cao Lỗ - một vị tướng vô cùng tài giỏi - làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy và đặt tên là “ Linh quang Kim Quy thần cơ”. - Chẳng bao lâu sau, quân Triệu Đà cử binh xâm lược nước ta, ta lấy nỏ thần ra bắn, làm quân giặc khiếp sợ và thua trận, chạy về Trâu Sơn đắp luỹ và xin hoà. - Một thời gian sau, Triệu Đà cầu hôn cho con trai, tỏ ý dùng cuộc hôn nhân giữ mối hoà hiếu cho hai quốc gia. - Ta cả tin chấp thuận gả con gái xinh đẹp Mị Châu cho Trọng Thuỷ và để cho hắn ở lại cung. - Nhưng quyết định đó quả thật là sai lầm vì ta đã vô cùng chủ quan không nghĩ đến rằng, con rể lại dụ dỗ Mị Châu cho xem nỏ thần rồi đánh tráo nỏ thần mang về phương Bắc. - Có được nỏ thần, Triệu Đà mang quân đến đánh, ỷ vào nỏ thần trong tay, ta không hề lộ sợ. - Nhưng éo le thay, khi ta biết nỏ kia không phải nỏ thần thì quá muộn, giặc đã tiến sát thành, ta phải cùng Mị Châu lên ngựa bỏ chạy về phương Nam. - Càng chạy thì ta vẫn thấy giặc đuổi theo sau. Đến tới bờ biển, ta biết đó là đường cùng. - Ta bèn kêu rằng “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” Rùa Vàng từ dưới nước xuất hiện, thét lớn “ Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. - Ta bất ngờ quay lại, và không thể tin vào mắt mình khi nhìn thấy đường rải đầy lông ngỗng, đây chính là lí do mà giặc có thể lần theo ta - Trên tay con gái Mị Châu là áo lông ngỗng, ta hiểu ra chuyện, vô cùng tức giận và đau lòng mà tuốt kiếm chém Mị Châu. - Mị Châu thấy vậy, bèn khấn với ta “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù” - Dù đau lòng nhưng đứng trước kẻ phản nghịch, tội đồ quốc gia ta không thể tha thứ với cương vị một người đứng đầu đất nước. - Ta theo Rùa Vàng rẽ nước xuống biển. - Về sau, ta được nghe rằng khi ấy Mị Châu con ta chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai ăn vào tạo thành hạt châu. Trong Thuỷ đến đó, thấy con ta đã chết, ôm xác về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. - Thì ra khi con gái ta chết, Trọng Thuỷ cũng đau đớn, nhớ mong mà tự tử ở giếng. Nước giếng đó rửa ngọc ở biển Đông thì ngọc vô cùng sáng và đẹp. III. Kết bài - Nêu lên bài học và ý nghĩa từ truyền thuyết. C. BÀI VĂN MẪU Đề bài Em hãy vào vai nhân vật An Dương Vương để kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy Gợi ý làm bài 1. Bài văn mẫu số 1 Trời đã vào thu, cảnh vật dường như tĩnh lặng hơn vì thế lòng người cũng trở nên buồn bã lạ thường. Cảnh làm cho tôi nhớ lại chuyện năm xưa – chuyện mà tôi hằng muốn quên, nhưng cứ mỗi lần nhớ lại làm tôi nhói đau. Chuyện là Tôi chính là An Dương Vương – nhà vua nước Âu Lạc trong câu chuyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Năm ấy, tôi được dân chúng khắp đất nước ngợi ca, ngưỡng mộ vì công lao xây thành Cổ Loa. Chẳng là, ban đầu, vua tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây thành, hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy, khiến tôi rất buồn lòng. Dường như, thần linh thấu hiểu được nỗi lòng mình, nên đã cử Rùa Vàng từ phương Đông đến, tự xưng mình là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, giúp tôi xây thành. Tôi đã rất mừng rỡ vì được thần giúp. Nửa tháng sau, thành được xây xong. Vì nó có hình xoắn như trôn ốc, nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Quý Long Thành, nó cao và uy nghi lắm. Trước khi Rùa Vàng ra về, có tặng tôi một chiếc vuốt và nói rằng vận nước là do mệnh trời nhưng con người có thể kéo dài thời vận nếu biết tu nhân tích đích, dặn tôi hãy lấy vuốt này để làm một chiếc lẫy, nếu có giặc thì lấy làm vũ khí giết giặc. Và khi được nghe lời đó, ngày hôm sau ta đứng ngoài cửa đông chờ đợi, và bất ngờ thấy một con Rùa Vàng bỗng nhiên nổi lên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, ta mừng rỡ vội vã dùng xe nghênh đón, rước Rùa Vàng vào thành. Cũng chính nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, thành sau nửa tháng thì xong. Ngắm nhìn thành mới mà lòng ta vui sướng. Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn ốc nên ta gọi nó là Loa Thành sừng sững và vững chắc lắm. Rồi Rùa Vàng ở với thành ta được ba năm rồi ra về. Trước khi ra về thì Rùa Vàng cũng đã bày tỏ lòng thành kính cảm tạ và hỏi thần nếu giặc đến, làm thế nào giữ nước. Rùa Vàng nghe hỏi rồi tháo vuốt đưa ta, dặn đi dặn lại rằng “ Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”. Vui mừng lắm, khi nghe lời thần, ta đưa Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rùa làm lẫy và đặt tên là “ Linh quang Kim Quy thần cơ”. Chỉ trong thời gian sau, quân Triệu Đà cử binh xâm lược nước ta, ta lấy nỏ thần ra bắn, làm quân giặc khiếp sợ và thua trận, chạy về Trâu Sơn đắp luỹ và xin hoà. Đất nước thái bình và ta cũng không còn lo lắng gì nhiều nữa. Cuộc sống cứ thế trôi đi, thanh bình, tôi dường như quên hẳn câu chuyện Rùa vàng cùng sự có mặt của chiếc nỏ thần. Thế nhưng, Triệu Đà đến từ phương Bắc mang quân sang xâm lược nước ta, ta đã dùng cái nỏ ấy tiêu diệt sạch quân giặc. Triệu Đà bèn phải xin hòa Chẳng bao lâu sau cuộc chiến tranh đó, vua Đà sang xin cầu hôn con gái ta là Mị Châu cho Trọng Thủy – con trai hắn. Ta đã làm một hành động ngu ngốc, đó là gả Mị Châu cho Trọng Thủy, việc mà về sau này người đời gọi là ta gián tiếp bán nước. Ta nào đâu có biết được những âm mưu thâm độc của cha con nhà Triệu Đà. Trọng Thủy sau khi làm rể ta chẳng được bao lâu thì xin về nước thăm cha. Ta đã đồng ý mà không biết rằng trong thời gian ở Âu Lạc, Trọng Thủy đã lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của Mị Châu con gái ta để xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm một cái khác thay vuốt Rùa Vàng. Trọng Thủy về nước mang theo nỏ thần mà không ai hay biết. Đến một ngày, đó là một ngày bình thường như bao ngày khác. Cha con Triệu Đà cử binh sang đánh nước ta. Lúc ấy, vì nghĩ có nỏ thần, nên ta đã chủ quan, nghĩ rằng mình sẽ thắng quân giặc. Nào ngờ, nỏ thần đã bị đánh cắp. Không còn con đường nào khác, cha con ta đã phải cùng nhau chạy về phương Nam. Khi càng chạy thì ta vẫn thấy giặc đuổi theo sau. Khi đã bỏ chạy đến tới bờ biển, ta biết đó là đường cùng. Ta không còn cách nào và nhớ ra sứ Thanh Giang bèn kêu rằng “ Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu” Rùa Vàng từ dưới nước xuất hiện, thét lớn cho ta biết rằng “ Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó”. Lúc này ta bất ngờ quay lại nhìn thấy đường rải đầy lông ngỗng, và trên tay con gái Mị Châu là áo lông ngỗng, ta hiểu ra chuyện và vô cùng tức giận. Không thể chịu được ta tức giận vừa đau lòng mà tuốt kiếm chém Mị Châu. Mị Châu thấy vậy thì cũng khấn với ta “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Cho dù rất đau lòng nhưng là một kẻ phản nghịch, tội đồ quốc gia ta không thể tha thứ với cương vị một người đứng đầu đất nước. Rồi ta theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu con ta lúc đó chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai ăn vào tạo thành hạt châu đúng như lời con khấn. Khi con rể Trọng Thuỷ đến đó, thấy con ta đã chết, ôm xác về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Con ta chết, thì Trọng Thuỷ cũng đau đớn, nhớ mong mà tự tử ở giếng. Nước giếng đó rửa ngọc ở biển Đông thì ngọc vô cùng sáng và đẹp điều này minh chứng cho sự ngây thơ và khờ dại của Mị Châu. Sau này, nhân dân tương truyền rằng. Cha con Triệu Đà lúc ấy đến bờ biển không thấy ta đâu mà chỉ thấy xác Mị Châu. Trọng Thủy vì quá đau lòng mà ôm xác vợ hỏa táng, Mị Châu biến thành ngọc thạch. Kể từ khi mất Mị Châu, Trọng Thủy vô cùng đau buồn nên đã nhảy xuống giếng tự tử. Người đời sau khi mò được ngọc ở biển đông, rửa vào giếng nước ấy thì ngọc trong sáng hơn, đẹp hơn. 2. Bài văn mẫu số 2 Ta xin giới thiệu ta chính là An Dương Vương và cũng là vị vua của nước Âu Lạc năm nào. Ngồi nhớ lại chuyện xưa khi ta dựng nước đã rất khó khăn nhưng khi dựng xong lại không giữ được nước. Với ta đây thực sự là một bài học không bao giờ ta quên vì nó còn để lại trong ta những nỗi đau đến vô vàn. Ta vẫn còn nhớ như in vào năm đó, sau khi lên ngôi vua, ta bèn nghĩ việc xây thành. Nhưng khốn đốn thay biết bao nhiêu, khi ta xây thành ở đất Việt Thường hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Ta cũng nghe nói vì đất nơi này còn vương vấn những hồn ma của các vị tướng bại trận trước đây mà họ không cho ta thuận lợi đắp thành. Lúc đó ta lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần và mong muốn có được người hiền tài đến giúp ta việc xây thành. Và quả nhiên vào ngày mồng bảy tháng ba thì ta bỗng thấy một cụ già từ phương Đông đứng trước cửa thành mà than một câu rằng “Xây dựng thành này bao giờ cho xong được”. Khi thấy vậy ta mừng rõ lắm và nhanh chóng đón vào trong điện và hỏi lý do vì sao ta đắp thành mà mãi không được. Lúc đó thì cụ già kia trả lời ta rằng “ Sẽ có xứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công”, rồi từ biệt ra về. An Dương vương bắt tay ngay vào việc xây thành nhưng ngặt nỗi cứ ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Nhà vua bèn sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xỉn thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, nhà vua bỗng thấy cỏ một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đi tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, An Dương Vương rước cụ già vào trong điện, kính cẩn hỏi rằng “Ta đắp thành này đã tốn nhiều công sức mà không được, là cớ làm sao?”. Cụ già thong thả đáp “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thì mới thành công”. Nói xong, cụ già từ biệt ra đi. Sáng hôm sau, có một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo với An Dương Vương rằng muốn xây được thành thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu. Quả nhiên, sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt trừ yêu quái thì chỉ khoảng nửa tháng là thành đã xây xong. Thành xây theo hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên gọi là thành Ốc hay Loa Thành. Rùa Vàng ở lại ba năm thì ra đi. Lúc chia tay, An Dương vương cảm tạ nói “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong. Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho An Dương Vương, dặn hãy lấy làm lẫy nỏ. Giặc đến, cứ nhằm mà bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Nhà vua sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy. Đó là nỏ thần Kim Quy. Một thời gian sau, Triệu Đà đem quân sang xâm lược, vua bèn lấy nỏ thần ra bắn. Quân của Triệu Đà thua to, bèn cầu hòa. Chính nhờ yếu tố thần kì về Rùa Vàng đã giúp An Dương Vương đạt được ý nguyện chính đáng mà cũng phù hợp với ý nguyện của nhân dân, của trời đất. Chẳng bao lâu sau, Triệu Đà cầu hôn. An Dương Vương gả con gái của mình là Mị Châu cho con trai của Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy lừa Mị Châu cho coi lẫy rời làm một cái khác thay thế cho vuốt Rùa Vàng. Trọng Thủy nói dối Mị Châu để chạy về phương Bắc. Sau khi có được nỏ thần, Triệu Đà đem quân sang xâm chiếm. An Dương Vương chủ quan nên đã bị thất bại. Ta thấy được bi kịch mất nước Âu Lạc là do sự chủ quan của An Dương Vương và Mị Châu. An Dương Vương làm mất nước do chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác với kẻ thù. Mị Châu đã mất cảnh giác khi cho Trọng Thủy xem nỏ thần. Mị Châu đã đặt chữ tình, đặt nặng trách nhiệm của một người vợ lên trên quốc gia, dân tộc. Lời kết tội của Rùa Vàng “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó” đại diện cho công lí, đứng trên quyền lợi của nhân dân, tổ quốc để phán xét hành động vô tình phản quốc của Mị Châu. Khi chém chết Mị Châu, An Dương Vương đã đứng vào quyền lợi của quốc gia, tổ quốc để phán xét Mị việc mất nước Âu Lạc, ta rút ra được bài học là cần phải biết xử lí đúng đắn mối quan hệ chung va riêng, cá nhân và nhà nước. Mị Châu đã không đặc trách nhiệm lên trên tình cảm để rồi gây ra việc mất nước. Sau khi giết chết Mị Nương, An Dương Vương đã cầm sừng tê bảy tấc rẽ nước theo Rùa Vàng đi xuống biển. Sự việc này chứng tỏ rằng An Dương Vương không chết trong lòng của nhân dân, có được sự tôn trọng, ủng hộ của nhân dân. Nhận thấy những chiếc lông ngỗng mà Mị Châu rải trên đường đã giúp dẫn đường cho quân địch và ta đã hiểu rằng chỉ vì sự cả tin của Mị Châu mà nỏ thần bị đánh cắp. Ta hét lớn và vung kiếm chém chết đứa con gái yêu quý. Nước mất nhà tan, quá thất vọng ta đành vung kiếm tự tử nhưng thần Kim Quy cứu mạng bằng cách dùng năng lực rẽ nước giúp ta đi xuống biển. Ở đời vì quá tin người và mất cảnh giác trước kẻ địch đã khiến cả cơ đồ bị hủy hoại trong phút chốc. Đây là bài học thấm thía mà ta và cả thế hệ mai sau phải khắc ghi. -Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp-
Vua An Dương Vương, họ Thục tên Phán, là vị vua lập nên nước Âu Lạc, nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Sau chiến thắng vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân nhà Tần, Thục Vương quyết định xây thành Cổ Loa, chọn một quả đồi đất rắn như đá để đắp thành. Thế nhưng, thành hễ đắp đến đâu lại lở đến đấy, sau mấy lần, An Dương Vương quyết định xem chỗ địa thành để lập đàn trai giới, cầu trời phù hộ đắp xong tòa thành. AN Dương Vương "Nước Việt ta không dễ gì mới đánh thắng được bọn giặc Tần hung hãn, nay muốn xây dựng nên một bức tường thành cao ráo, kiên cố, để cho con dân trăm họ được yên ổn an sinh, nhà nhà no ấm, nước nhà hưng thịnh. Mong cho bách thần thành toàn ước nguyện." Nói rồi An Dương Vương khấu đầu ba cái, tất cả quần thần, dân chúng cũng làm theo. Không lâu sau đó, vào ngày mồng bảy tháng ba, An Dương Vương cùng các quân thần vẫn đi xem thành như thường lệ, nhìn đám người đang hì hục khuân vác, nhà vua không khỏi than thở - Không biết trời có giúp ta? Cụ già "Xây dựng thành như thế này, biết bao giờ cho xong được." Chợt, từ phía sau vang lên một giọng nói, nhà vua ngạc nhiên quay đầu lại, thấy một cụ già từ xa đi tới, đến trước mặt vua hành lễ. Vua nghe cụ nói như vậy, liền biết đây là người có thể giúp mình, mừng rỡ đón vào điện, thi lễ, hỏi - Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tốn nhiều công sức nhưng không thành, thế là cớ làm sao? Cụ già đáp - Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thành mới thành công. An Dương Vương "Sứ Thanh Giang?" Cụ già gật đầu "Lão chỉ phụ trách báo tin, nay đã xong việc, xin được cáo lui." Cụ già nói rồi ra về. Hôm sau, từ lúc sáng tờ mờ, nhà vua đã ra cửa Đông chờ đợi, lúc sương vừa tan, bỗng thấy xuất hiện một con rùa vàng từ xa tiến lại, nổi trên mặt nước. Rùa Vàng "Thục vương là đang đợi ta sao?" Nghe thấy rùa vàng nói sõi tiếng người, cả nhà vua và quần thần đều hết sức kinh ngạc, cũng rất tôn kính. Rùa vàng chỉ trong một khắc, biến hóa thành người, đứng trên bờ. An Dương Vương "Ngài chính là?" Rùa Vàng "Đúng thế, ta chính là thần Kim Quy, sứ giả của vua Thủy Tề, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Nay biết được Thục vương gặp khó khăn trong việc xây thành, vua Thủy Tề lệnh cho ta đến đây giúp đỡ." Nhà vua mừng rỡ nói "Điều này cụ già đã báo cho ta biết trước. Không nên chậm trễ, người đâu, mau đưa xe rước sứ Thanh Giang vào thành tiếp đón cẩn thận." Đoàn xe đi vào trong thành, thần Kim Quy bèn nói với nhà vua "Thục vương, trước khoan hãy vào điện, ta muốn đến xem nơi thành lũy đang xây dựng." An Dương Vương làm theo lời của Thần Kim Quy. Đến nơi, thần Kim Quy đứng xem xét, đã biết được nguyên nhân vì sao thành lở. Rùa Vàng "Ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hóa khôn lường, nó cùng với những yêu ma quỷ quái nơi đây thường phá phách dân làng, cũng chính nó đã làm cho thành lở, mãi không được xây xong." Thần Kim Quy nói xong nguyên do, bèn cùng với nhà vua bàn cách tiêu diệt, chỉ trong vòng ba ngày, đám yêu ma quỷ quái đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Có Rùa Vàng trấn giữ, mọi việc đã yên tâm, nhà vua nói với Cao Lỗ "Mau đốc thúc việc xây thành, để chuẩn bị trước khi Triệu Đà lại cho quân sang chiếm Âu Lạc ta." Cao Lỗ "Thần tuân lệnh." Thành xây nửa tháng thì xong, thành rộng hơn ngàn trượng, vừa cao vừa dày, xoắn như hình trôn ốc, nên lấy tên là Loa Thành, hay còn gọi là Quỷ Long Thành, người thời Đường gọi nó là Côn Lôn Thành, lấy lẽ rằng nó cao lắm. Rùa vàng ở lại ba năm rồi từ biệt ra về. Ngày tiễn thần đi, nhà vua cảm tạ nói "Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?" Thần Kim Quy biến trở lại thành một con rùa vàng rất lớn, nổi trên mặt nước, đáp rằng "Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Nhà vua ước muốn ta có tiếc chi." Nói rồi bèn tháo một cái móng của mình, trao cho nhà vua "Đem vật này làm lẫy nỏ, khi có giặc đem ra bắn, có thể giết được hàng nghìn quân địch." Nói rồi Rùa Vàng lặn xuống biển sâu. Lúc vào thành, An Dương Vương tức tốc giao việc cho Cao Lỗ "Hãy lập tức cho người làm một cái nỏ lớn, dùng cái này làm lẫy nỏ, nhờ thánh thần giúp ta, lần này Âu Lạc nhất định sẽ lại giành được thắng lợi." Cao Lỗ cũng vui mừng "Vâng, thần tuân chỉ. Nhờ phúc của bệ hạ, lần này nhất định chúng ta sẽ lại chiến thắng." Nỏ thần làm xong, Nhà vua đặt tên cho nó là "Linh quang Kim Quy thần cơ". Dù đã có nỏ thần trong tay, An Dương Vương vẫn ngày đêm miệt mài luyện binh rèn tướng, không hề ngừng nghỉ, bởi lẽ "Dù chúng ta đã có nỏ thần, vẫn luôn phải đề cao cảnh giác, tuyệt không lơ là, giặc ngoại sức cường thế mạnh, chúng ta chỉ là một nước nhỏ, nhất định phải ngày đêm dốc sức rèn luyện." Binh lính "Rõ" Không lâu sau Triệu vương là Đà đem quân sang xâm lược phương Nam nước Âu Lạc, Thục Phán An Dương Vương đã xây xong thành Cổ Loa, lại có nỏ thần trong tay, Âu Lạc đánh bại sự xâm lăng của Triệu Đà, quân Đà thua lớn chạy về Trâu Sơn, đắp lũy không dám đối chiến. Thế nhưng, không từ bỏ dã tâm, Triệu Đà lại dùng gian kế "cầu hòa", hắn sai người viết một lá thư, trong thư viết "Thục vương nước Âu Lạc là người tài trí đa mưu, lại được thần linh giúp đỡ, bản vương đúng là có mắt không thấy thái sơn, đem quân sang đánh Âu Lạc, đúng là việc lỗ mãng ngu dốt. Nay ta muốn được cầu hòa, muốn Thục Vương gả con gái Mị Châu cho con trai ta là Trọng Thủy, mong hai nước từ nay được yên ổn an sinh, không còn chiến tranh đau thương, loạn lạc." Cùng theo đó là rất nhiều trang sức lễ vật. Lúc nhìn thấy lễ vật cùng với thư cầu hôn, An Dương Vương nói với con gái Mị Châu "Nước Triệu đã thua dưới tay ta, nay Triệu Vương muốn cầu hòa, ý muốn hai nước được hòa bình không còn chiến tranh, ta thấy đây là việc tốt, con gái, con là công chúa Âu Lạc, nay đã đến lúc con báo đáp cho đất nước." Mị Châu lệnh vua cha khó trái, bèn đồng ý lấy Trọng Thủy. Cao Lỗ đứng bên nghe thấy vậy, vội nhắc nhở An Dương Vương "Bệ Hạ, Triệu Vương có ý nhòm ngó nước ta đã lâu, nay đột ngột xin hòa, chỉ sợ lại có tâm tư gì khác, mong bệ hạ hãy cân nhắc kĩ lưỡng." An Dương Vương nghe hạ thần nói vậy, liền cười "Ta biết ngươi lo lắng cho vận nước, nhưng ngươi cũng đừng cả nghĩ nhiều, nếu Triệu vương dám đem quân sang xâm lược, quân ta dù ít nhưng ai ai cũng là tráng sĩ, hơn nữa lại có nỏ thần, không cần phải quá lo lắng." Cao Lỗ nghe vậy cũng không nói gì thêm. Ngày lành tháng tốt đã định, hai nước Âu Lạc và Triệu quốc liên hôn, trăm họ vui mừng. Trước khi Trọng Thủy sang nước Âu Lạc, Triệu Vương đã dặn dò "Chuyện quốc gia đại sự nhất định phải đặt lên hàng đầu, không được để chuyện nhi nữ tình trường gây cản trở, con đã nhớ chưa?" Trong Thủy vâng lời đáp "Vua cha cứ yên tâm, con đã ghi nhớ lời dặn." Triệu Đà vẫn chưa yên tâm, bèn cho gọi Hàn Sa- người sẽ đi theo Trọng Thủy đến Âu Lạc, nói "Nhà ngươi đi theo hoàng tử, nhớ lấy, luôn nhắc nhở hoàng tử về nhiệm vụ của mình, biết chưa?" Hàn Sa "Vi thần tuân chỉ, Vương hãy cứ yên tâm." Triệu Vương "Chỉ cần chuyện thành công, ngươi chắc chắn sẽ được trọng thưởng, ban phát đất đai ruộng vườn, người nhà được thăng tiến. Ta sẽ không bạc đãi ngươi." Trọng Thủy sang ở rể, hai người tình chàng ý thiếp sâu đậm, chàng từ lúc nhìn thấy Mị Châu, đã thật lòng yêu nàng. Qua một thời gian, khi mà mọi người đã không còn nghi ngờ, hắn bèn dụ dỗ Mị Châu cho xem nơi cất dấu nỏ thần "Nương tử của ta, từ ngày hai ta lấy nhau đã được ba năm, thế nhưng ta chưa làm được gì cho vua cha vui lòng, cùng lắm mới chỉ tham gia vài buổi huấn luyện binh sĩ, thân là phò mã, chuyện này cũng đáng xấu hổ." Mị Châu đáp "Chàng không cần phải lo nghĩ chuyện đó, hai nước liên hôn, con dân no ấm, như thế vua cha đã rất vui lòng." Trọng Thủy làm bộ "Nhưng ta còn muốn nhiều hơn thế, ta từ mấy tháng trước đã tìm hiểu cách chế tạo vũ khí, không thì.. không thì nàng hãy đưa ta đến nơi cất dấu nỏ thần, để ta có thể mở mang tầm mắt, biết cách làm thế nào để chế thêm những thứ binh khí lợi hại hơn." Mị Châu do dự "Nhưng, nơi cất nỏ thần là bí mật, vua cha không muốn để cho người ngoài biết.." "Ý nàng là, ta hóa ra cũng chỉ là người ngoài, ta không đáng tin như thế ư?" Nàng chưa nói hết câu, Trọng Thủy đã cướp lời, lại tỏ vẻ đau thương. Mị Châu thấy Trọng Thủy hiểu lầm ý mình, liền vội vàng nói "Chàng đừng nghĩ oan cho thiếp, chàng là phu quân của ta, ta làm sao lại nghĩ chàng là người ngoài được." Mị Châu đã bị nét mặt rầu rĩ của Trọng Thủy lừa gạt, nàng thầm nghĩ chàng cũng là vì muốn giúp vua cha, bèn đồng ý đưa chàng đến nơi cất giấu nỏ thần. Sau khi biết được nơi cất nỏ thần, Trọng Thủy lại do dự. Hàn Sa, người theo Trọng Thủy từ Triệu quốc tới đây, nhìn thấy vẻ do dự trên mặt chàng, bèn hỏi "Hoàng tử, ngài đang do dự điều gì sao?" Trọng Thủy ngẫm nghĩ hồi lâu, đáp "Nếu bây giờ ta tráo nỏ, đem về cho vua cha, liệu, liệu nàng có oán trách ta không?" Hàn sa ngước nhìn chàng "Hoàng tử, mong người lượng thứ cho thần nhiều lời, nhưng người là hoàng tử một nước, đây là việc đại sự, nếu như người hoàn thành việc này, chắc chắn ngôi báu sẽ về tay người." Hắn lại tiếp "Hơn nữa, cũng chỉ là một Mị Châu công chúa, nếu người thích thì có thể đem về Triệu quốc, đừng nói chỉ là nàng ta, nếu người muốn nạp thêm thê thiếp, cũng không ai dám cấm cản." Trọng thủy lạnh giọng "Ta lo chuyện đó sao?" Thấy nét mặt của chàng, hắn vội quỳ xuống "Xin Hoàng tử tha tội, là thần đã nói sai, là thần đã nói sai." "Đứng lên đi" Hàn Sa "Nhưng mà hoàng tử, người thử nghĩ xem, nếu người hoàn thành nhiệm vụ này, đánh tráo nỏ thần, thì Thục Phán chắc chắn sẽ thua dưới tay của Vương, đến lúc đó Triệu quốc mở rộng bờ cõi, đất đai, tiền của, dân, binh lính, của Âu Lạc đều là của chúng ta. Thục Phán sẽ trở thành nước chư hầu của Triệu Quốc, quan hệ lúc đấy nói đúng ra cũng không khác bây giờ là mấy, đợi mọi chuyện qua đi nhân dân bách tính hai nước vẫn ở yên làm lụng, chỉ khác ở chỗ, người phải cúi đầu sẽ là Thục Phán, là Âu Lạc, chứ không phải Triệu quốc ta, người nói có đúng không?" Trọng Thủy đã bị hắn thuyết phục, vì lợi ích gian sơn xã tắc Triệu quốc, hắn chỉ có thể ủy khuất nàng, đến lúc xong việc hắn sẽ đối xử tốt hơn nữa với nàng. Hàn Sa đem chiếc lẫy nỏ đã được làm giả cho Trọng Thủy. Tối hôm đó, nhân lúc binh lính canh gác sơ hở, lẫy nỏ thần đã bị đánh tráo. Vài ngày sau, Trọng Thủy lấy cớ về thăm cha "Vua cha, con muốn được về thăm cha con, người đang ốm bệnh, phận làm con đặt chữ hiếu lên đầu, mong được vua cha thành toàn." An Dương Vương gật đầu "Đương nhiên là được, chuyện này con không cần lo lắng, cứ về thăm cha con đi." Trước khi đi, chàng nói với Mị châu "Tình vợ chồng không thể lãng quên, ngiã mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?" Nàng không nghe ra hàm ý trong lời nói của phu quân, chỉ nghĩ là chàng đã quá lo lắng, bèn đáp "Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngống thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông lông mà rắc ở ngã ba đường làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau." Trọng Thủy đem lẫy thần về nước, Triệu Vương được lấy cả mừng, bèn phái binh sang đánh. An Dương Vương thấy chuyện có ẩn tình, nhưng vì cậy có nỏ thần nên vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ "Không ngờ Đà lại lật lọng, hắn không sợ nỏ thần sao?" Đến lúc quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, chỉ bắn ra được năm tên ít ỏi, đã biết cơ sự lẫy thần đã bị đánh tráo. Nhà vua tức giận, nhìn quân Đà đang phá cổng thành mà lòng như lửa đốt. Cao Lỗ vội vàng "Bệ hạ, không kịp rồi, người hãy mau đem công chúa chạy về phương Nam, chúng thần sẽ ở đây cầm chân bọn chúng." An Dương Vương nhìn vào mắt Cao Lỗ, quát "Ta thân là vua một nước, chuyện đến nước này la do ta đã quá chủ quan tin người, bây giờ sao có thể tự thân bỏ chạy mà để quân thần bách tính ở lại. Ta sẽ ở lại đây, ngươi hãy mang công chúa đi, bảo vệ công chúa an toàn." Cao Lỗ vội vã ngăn cản "Không được thưa bệ hạ, cũng bởi vì người là vua của Âu Lạc, nên nhất quyết không được để bị bọn chúng bắt giữ, nếu không người đời sẽ càng chê cười, chỉ cần người giữ được tính mạng, thần tin Âu Lạc sẽ có ngày trở mình." An Dương Vương "Nhưng.." "Xin bệ hạ thứ tội thần phạm thượng." Không đợi vua nói hết câu, Cao Lỗ bèn nâng AN Dương Vương lên ngựa, rồi bế công chúa lên sau, lấy giáo đánh vào ngựa. Con ngựa bị đau lao nhanh vun vút, hướng đến phương Nam. Vua chạy tới bờ biển, thấy không có thuyền qua, đến đường cùng bèn kêu lên "Trời hại ta, sứ Thanh Giang mau mau đến cứu." Rùa Vàng hiện lên mặt nước, thét lớn "Kẻ ở sau ngươi chính là giặc đó!" An Dương Vương quay lại, nhìn thấy Trọng Thủy cùng tán quân đang đuổi theo, lại nhìn thấy dấu lông ngỗng trên mặt đất, liền hiểu ra mọi chuyện. An Dương Vương tức giận "Ngươi, người thân là công chúa một nước, lại đi tiếp tay cho giặc, kẻ phản đồ như ngươi xứng đáng nhận cái chết." Mị Châu quỳ xuống khấn rằng "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù." Vua rút kiếm, chém đầu Mị Châu, máu của nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển. Lúc Trọng Thủy đến nơi, chỉ còn xác của Mị Châu nằm đó, chàng ôm xác Mị châu, đau khổ tột cùng, ngửa mặt lên trời hét lớn "Không.." Đời truyền nơi đó là đất Dạ Sơn, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu. Xác của nàng được đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mị Châu đã chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, lúc đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông, lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng thêm, nhân kiêng tên Mị Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu. an dương vương âu lạc kể chuyện lớp 10 mị châu trọng thủy
nhập vai mị châu kể lại chuyện an dương vương